2006: Năm quyết định của thương mại toàn cầu
Trong bối cảnh tăng trưởng của nền kinh tế thế giới phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống mậu dịch như hiện nay, 2006 sẽ là một năm rất quan trọng đối với hệ thống mậu dịch toàn cầu...
Trong bối cảnh tăng trưởng của nền kinh tế thế giới phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống mậu dịch như hiện nay, 2006 sẽ là một năm rất quan trọng đối với hệ thống mậu dịch toàn cầu.
Vòng đàm phán
Những hiện tượng mất cân bằng, thậm chí trái ngược nhau giữa các nền kinh tế vốn phụ thuộc vào nhau - chẳng hạn như thâm hụt mậu dịch thì ngày càng tăng lên ở Mỹ (hiện đã lên tới 700 tỷ USD trong năm nay), trong khi thặng dư mậu dịch tại Trung Quốc vẫn tăng lên chóng mặt không kém - đang làm dấy lên làn sóng bảo hộ ở những nền kinh tế hàng đầu, từng là người tiên phong trong làn sóng mậu dịch tự do.
Trong bối cảnh các nền kinh tế châu Âu vẫn chưa thoát khỏi giai đoạn trì trệ, mở rộng mậu dịch có thể sẽ là giải pháp duy nhất cho một sự hồi sinh. Nhưng đổi lại, những nông dân được hưởng chính sách bảo hộ cao ở châu Âu cũng sẽ phải mở cửa thị trường của họ cho các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển như
Trong khi đó, do các cuộc đàm phán rơi vào bế tắc, Mỹ và Trung Quốc đang theo đuổi việc ký kết các thoả thuận riêng rẽ với những đồng minh của mình.
Trên thực tế, hội nghị cấp bộ trưởng của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tại Hong Kong vào tháng 12 này chỉ đạt được những tiến triển khiêm tốn so với mục tiêu mở rộng tự do thương mại. Bộ trưởng thương mại từ 149 nước đã không thể nhất trí bất kỳ một kế hoạch cụ thể nào đối với việc mở cửa thị trường, nhưng cam kết sẽ đạt được một thoả thuận cụ thể vào tháng tư năm sau.
Các cuộc đàm phán, bắt đầu từ năm 2001, được ấn định là sẽ kết thúc vào cuối năm 2006 với đích cuối cùng là đạt được một thoả thuận mở cửa thị trường nông nghiệp ở các nước giàu và thị trường đối với hàng công nghiệp cũng như dịch vụ tại một số nước đang phát triển. Với tình trạng hiện giờ của các cuộc đàm phán, việc cuộc họp không đổ vỡ trong thái độ giận dữ lẫn nhau giữa các nước giàu và các nước nghèo được nhìn nhận là một sự an ủi.
Các nước giàu đề xuất nhiều nhượng bộ dành cho các nước nghèo, trong đó có cả cam kết chấm dứt hỗ trợ xuất khẩu nông nghiệp vào năm 2013, và không đánh thuế cũng như không áp dụng quy chế hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ một số nước nghèo nhất – nhưng kèm theo một vài điều kiện ràng buộc.
Trong khi đó, các nước đang phát triển đang hợp tác với nhau chặt chẽ nhất từ trước tới nay. G20, nhóm nước có thu nhập trung bình do
Cơ hội đạt được một thoả thuận thương mại toàn cầu phụ thuộc một phần vào những lợi ích mà mỗi quốc gia tính toán rằng họ sẽ đạt được sau khi chấp nhận một vài nhượng bộ nào đó. Mặc dù bộ trưởng thương mại các nước thường xuyên khẳng định rằng tự do thương mại phải là một cục diện “hai bên cùng có lợi”, song một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy những lợi ích của một thoả thuận mậu dịch không nhiều như người ta từng nghĩ và phân bố không đều.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, tình trạng tự do mậu dịch tuyệt đối có thể làm tăng mức tăng giá trị tổng sản phẩm của kinh tế toàn cầu lên 287 tỷ USD/năm vào năm 2015, nhưng hai phần ba mức tăng trên sẽ thuộc về các nước công nghiệp.
Và cho dù các nước xuất khẩu nông sản lớn, chẳng hạn như Brazil, có thể được hưởng lợi nhiều nhất nếu các bên đạt được một hiệp định, song nhiều nước đang phát triển đồng thời cũng là những nước nhập khẩu lương thực lớn – như Bangladesh, Cameroon và Mozambique - sẽ bị thua thiệt trong vài năm đầu kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
Vấn đề đối với một hiệp định thương mại toàn cầu tiềm năng là ở chỗ, để có thể nhận được sự ủng hộ về mặt chính trị ở các nước Bắc Mỹ (đặc biệt là từ Quốc hội Mỹ) thì nó phải bao gồm các điều khoản quy định việc mở cửa hoàn toàn thị trường nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Thế nhưng nước đang phát triển chủ chốt lại có quan điểm khác nhau trong từng lĩnh vực, phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của họ trong lĩnh vực đó.
Do các cuộc đàm phán thương mại toàn cầu đang rơi vào thế bế tắc, các nước lớn đang hướng đến việc thiết lập các hiệp định mậu dịch tự do để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị của họ. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng những hiệp định này không được mong đợi nhiều so với một thoả thuận mang tính toàn cầu vì sức mạnh đàm phán của các bên tham gia những hiệp định đó không tương đương với nhau.
Mỹ đã ký kết hiệp định mậu dịch tự do với 13 nước và đang đàm phán với 10 nước nữa - kể cả những đồng minh chiến lược như Ả rập
Trung Quốc cũng đang thực hiện chiến lược riêng của mình. Bắc Kinh đang hướng đến kế hoạch xây dựng Đông Á thành khu vực mậu dịch tự do. Họ đã ký kết hiệp định song phương với các nước ASEAN và đang trong quá trình đàm phán với New Zealand, Australia, và có thể là Hàn Quốc và Nhật Bản trong tương lai.
Liên minh châu Âu cũng đang tìm cách thiết lập quan hệ kinh tế với 69 nước từng là thuộc địa của họ trước đây ở châu Phi, khu vực Caribbe và Thái Bình Dương, đồng thời thắt chặt quan hệ với các nước Trung Đông.
Sự xuất hiện của các khối mậu dịch tự do có thể làm gia tăng căng thẳng lên một số tranh chấp thương mại nóng bỏng hiện nay – chẳng hạn như tranh chấp giữa Trung Quốc với Mỹ và EU về xuất khẩu hàng dệt may, tranh cãi giữa EU và Mỹ quanh vấn đề trợ cấp cho Airbus và sự quan ngại của EU đối với việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản biến đổi gene.
Một trở ngại chính trị cơ bản nữa đối với các cuộc đàm phán tại
Các cuộc thăm dò dư luận gần đây do Quỹ Marshall (Đức) tiến hành cho thấy, Mỹ và 5 nước lớn ở châu Âu là Pháp, Đức,
Bên ngoài khu vực Mỹ Latin, nơi mà sự hoài nghi vẫn ngự trị, toàn cầu hoá được phần lớn các nước, như Nigeria, Singapore, Việt Nam, nhìn nhận là có lợi, theo như quả điều tra của Pew Global Attitudes. Chỉ có 9% người dân châu Phi và 10% người dân tại các nước châu Á đang phát triển cho rằng toàn cầu hoá sẽ tác động tiêu cực đến nước họ.
Gần một nửa số người tham gia điều tra của Pew Global Attitudes cho rằng họ sẽ được lợi từ tự do thương mại, nhưng phần lớn hơn cho rằng các công ty đa quốc gia và những nước đang phát triển mạnh mẽ như Trung Quốc sẽ được lợi nhiều nhất.
Nỗi lo lớn nhất của người dân tại các nước công nghiệp phát triển là tác động của mậu dịch tự do đối với việc làm. Tuy nhiên, người dân ở các nước phương Tây không phải là những người theo chủ nghĩa cô lập - hai phần ba dân số các nước này ủng hộ mậu dịch tự do toàn cầu, và ba phần tư cho rằng mậu dịch sẽ làm tăng sự ổn định của nền kinh tế thế giới.
Nhưng sự hoài nghi ngày càng tăng của họ, đặc biệt là nông dân, về những lợi ích của tự do thương mại - trừ Anh là trường hợp ngoại lệ lớn nhất - sẽ khiến cho việc củng cố một hiệp định thương mại trong năm nay trở lên khó hơn.
VnE BBC