5 nguyên nhân đẩy giá tiêu dùng tăng cao
Hai năm qua, nhịp độ tăng giá tiêu dùng luôn bằng và vượt nhịp độ tăng GDP. Hiện vẫn có những nguyên nhân ít được làm rõ...
Hai năm qua, nhịp độ tăng giá tiêu dùng luôn bằng và vượt nhịp độ tăng GDP. Hiện vẫn có những nguyên nhân ít được làm rõ.
Việc xác định đúng những nguyên nhân chủ yếu là tiền đề không thể thiếu để các cơ quan quản lý Nhà nước có thể thành công trong việc kiềm chế giá tiêu dùng trong những năm tới.
Từ thực trạng của nền kinh tế hiện nay, có thể rút ra 5 nguyên nhân chủ yếu đẩy giá tiêu dùng lên cao trong hai năm qua:
Thứ nhất, tuy còn ở trình độ phát triển rất thấp, nhưng độ mở của nền kinh tế nước ta ở đầu vào nhập khẩu đã tăng rất nhanh, cho nên đương nhiên quy mô "nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới" vào thị trường trong nước cũng tăng rất nhanh.
Cụ thể, các số liệu thống kê 10 năm qua cho thấy, nếu như tỷ lệ của nhập khẩu hàng hoá so với GDP năm 1996 là 45,22% và giảm mạnh trong thời gian khủng hoảng kinh tế khu vực phát tác rất mạnh đối với nền kinh tế nước ta, thì năm 2005 đột ngột tăng lên 69,50%.
Rõ ràng, độ mở ở đầu vào tới gần 70% của nền kinh tế nước ta là rất lớn, cho nên "nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới" vào thị trường trong nước của nước ta hiển nhiên cũng lớn hơn hẳn.
Hơn thế, trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của nước ta, nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn (năm 1996 chiếm 59,99%; năm 2004 chiếm khoảng 68%), mà đây lại chính là những mặt hàng giá cả thế giới sốt nóng mạnh nhất trong hai năm qua, cho nên đương nhiên "nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới" vào thị trường trong nước của nước ta càng tăng mạnh hơn.
Cụ thể, các số liệu thống kê của WTO cho thấy, sau khi sốt lạnh chấm dứt năm 1999, giá của nhóm hàng nguyên liệu nói chung đã tăng vọt từ 88 điểm lên 116 điểm năm 2000 (năm gốc 1995 = 100 điểm); năm 2004 tiếp tục tăng vọt lên 151 điểm (tăng thêm 31 điểm) và giữa năm 2005 vừa qua lại một lần nữa tăng vọt lên 188 điểm (tăng thêm 37 điểm).
Như vậy, trong tổng kim ngạch nhập khẩu 36,881 tỷ USD trong năm 2005 vừa qua, với ước khoảng 25,1 tỷ USD nguyên, nhiên, vật liệu, nếu quy về giá năm 1995 thì chỉ khoảng 13,3 tỷ USD, tức là đã có khoảng 186 nghìn tỷ đồng lạm phát được nhập khẩu vào thị trường trong nước so với năm 1995.
Thứ hai, thực tế thế giới cho thấy rằng, càng ở những nước kém phát triển, thuế nhập khẩu càng cao, và nước ta cũng không phải là một ngoại lệ, bởi thuế đánh vào hàng nhập khẩu phục vụ các nhu cầu sn xuất và tiêu dùng trong nước của nước ta vẫn còn là một khoản thu lớn của ngân sách Nhà nước, cho nên đây chính là yếu tố làm "khuyếch đại" các cơn sốt nóng của giá cả thế giới ở thị trường trong nước.
Chẳng hạn, vẫn theo số liệu của WTO và giả định là thuế nhập khẩu của những nước kém phát triển như nước ta đánh vào nguyên, nhiên, vật liệu là 20%, thì giá thực tế nhập khẩu không chỉ dừng lại ở các mức như nói trên, mà sẽ bị "khuyếch đại" thêm 37,6 điểm và đạt 225,6 điểm, tức là thực tăng 125,6 điểm vào thời điểm năm 2005.
Thứ ba, tuy còn ở trình độ phát triển rất thấp, nhưng độ mở của nền kinh tế nước ta ở đầu ra xuất khẩu cũng đã tăng rất nhanh trong những năm qua, cho nên quy mô "nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới" vào thị trường trong nước cũng đã tăng nhanh.
Cụ thể, các số liệu thống kê 10 năm qua cho thấy, nếu như tỷ lệ của xuất khẩu hàng hoá so với GDP năm 1996 chỉ mới là 29,45% thì do đã tăng liên tục trong những năm qua, cho nên hiện ước đạt 60,75%. Đây cũng là độ mở rất lớn. Trong đó, nhóm hàng nguyên liệu thô và các sản phẩm sơ chế vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể và đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu rất được giá trong hai năm qua.
Trong bối cảnh như vậy, các cơn sốt nóng giá cả trên thị trường thế giới ở những mặt hàng này đương nhiên cũng không thể không tác động mạnh tới giá cả ở thị trường trong nước.
Việc giá gạo thế giới sốt nóng dẫn đến giá lương thực trong nước của nước ta cũng nóng theo là thí dụ điển hình nhất về những tác động dây chuyền này.
Thứ tư, do trình độ phát triển kinh tế còn rất thấp, đồng nghĩa với "rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng" của dân cư nước ta còn rất nhỏ, cho nên sốt nóng giá cả ở những nhóm hàng chủ yếu được thể hiện càng rõ trong mức tăng giá tiêu dùng.
Cụ thể, do thu nhập của dân cư nước ta hãy còn quá thấp, cho nên tiêu dùng riêng mặt hàng lương thực hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng 13,08% và tiêu dùng thực phẩm chiếm 34,58%, cho nên tổng tiêu dùng của tất cả các nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại chỉ chiếm 52,37%.
Trong điều kiện như vậy, việc giá thực phẩm tăng vọt 17,1% trong năm 2004 và 12% trong năm 2005, còn giá lương thực tăng 14,3% và 7,8% (tính chung hai nhóm hàng này tăng 15,6% và 10,8%) là những nhân tố chủ yếu dẫn tới các mức tăng đột biến 9,5% và 8,4% của giá tiêu dùng trong hai năm vừa qua.
Thứ năm, cũng như các quốc gia còn ở trình độ phát triển rất thấp khác, trong nền kinh tế nước ta luôn luôn tiềm ẩn những yếu tố đẩy giá tiêu dùng tăng cao.
Chẳng hạn, đó là việc tăng vọt lương cho đội ngũ đông đo công chức trong thời gian qua, dẫn đến tình trạng ồ ạt "tát nước theo mưa" của thị trường, hay những yếu kém trong quản lý dẫn đến giá dược phẩm tăng vọt trong những năm gần đây...
Đây là điều mà chắc chắn ở những nước có trình độ phát triển cao khó có thể chứng kiến.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, với một nền kinh tế còn rất kém phát triển, trong lòng nó còn nhiều tồn tại và bất cập, nhưng đã đạt được những thành tựu lớn trong xuất khẩu, và mặt khác, lại phụ thuộc hết sức nặng nề vào nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, bản thân giá tiêu dùng vốn đã tiềm ẩn những bất ổn, cho nên các cơn sốt nóng giá thế giới các hàng hoá ở cả đầu vào nhập khẩu lẫn đầu ra xuất khẩu đều được lan truyền và khuyếch đại ở thị trường nước ta.
TBKTVN