"10 bất cập của Luật Đầu tư chung"
Dự thảo Luật Đầu tư chung lần thứ 13 đang tiếp tục lấy ý kiến. Một lần nữa, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam tiếp tục có những phân tích và đóng góp cho dự thảo Luật Đầu tư chung đang trong giai đoạn cuối hoàn tất trước khi trình Quốc hội trong kỳ họp tới...
Dự thảo Luật Đầu tư chung lần thứ 13 đang tiếp tục lấy ý kiến. Một lần nữa, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt
Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính, xung quanh những vấn đề được xem là bất cập của dự thảo Luật Đầu tư lần này.
So với lần trước, dự thảo Luật đầu tư thứ 13 này đã khắc phục nhiều điểm vướng mắc chưa, thưa ông?
Dự thảo Luật Đầu tư chung được biên soạn lần thứ 13 và mới hoàn thành ngày
Tại hội thảo ngày 13/8/2005 để lấy ý kiến về xây dựng Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư diễn ra tại Hà Nội do Hội doanh nghiệp trẻ Hà Nội & Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức, tất cả các doanh nghiệp đều không ủng hộ Dự thảo Luật đầu tư lần thứ 13 vì đang còn quá nhiều vấn đề bất cập.
Những trở ngại đó chủ yếu là gì, thưa ông?
Trở ngại thứ nhất là Dự án phổ thông từ 5 tỷ đồng - 300 tỷ đồng phải làm nhiều thủ tục để xin Giấy chấp thuận đầu tư tại Cơ quan quản lý đầu tư và chịu thêm 1 cơ quan thanh tra mới là thanh tra đầu tư. Đây là những vấn đề mới mà Luật Khuyến khích đầu tư không qui định.
Hiện có rất nhiều cơ quan thanh tra doanh nghiệp như các đơn vị thanh tra: tài chính, thuế, môi trường, xây dựng, sử dụng đất đai, lao động, hình sự, cứu hoả, thống kê... Ngoài ra, còn có các cơ quan thanh tra chuyên ngành như thanh tra về chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, hàng hải, bưu chính viễn thông, vệ sinh an toàn thực phẩm... Theo dự thảo sẽ có thanh tra đầu tư với mục đích thanh tra các dự án đầu tư.
Tuy nhiên bất kỳ dự án đầu tư nào cũng đều phải chịu sự thanh tra của các tổ chức nói trên, không hiểu thanh tra sẽ thực hiện những công việc gì?
Trở ngại thứ hai là Dự án đầu tư không sử dụng vốn Nhà nước có qui mô trên 300 tỷ đồng được coi là Dự án phổ thông có điều kiện, buộc phải thẩm định về tính khả thi của dự án bởi cơ quan quản lý Nhà nước cao hơn. Như vậy sẽ thêm nhiều cơ quan hành chính Nhà nước tham gia xét duyệt dự án thì mới được cấp phép đầu tư. Đây cũng là vấn đề mới mà Luật khuyến khích đầu tư không qui định.
Thứ ba, bất kỳ dự án đầu tư nào ở doanh nghiệp mà trị giá cổ phần nhà nước từ 100 tỷ đồng trở lên cũng được coi là Dự án phổ thông có điều kiện. Như vậy cho dù giá trị dự án chỉ vài tỷ đồng cũng sẽ được coi là Dự án phổ thông có điều kiện và buộc phải thẩm định bởi cơ quan Nhà nước để cho phép đầu tư.
Điều này, Luật hiện hành cũng không qui định.
Thứ tư, dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện được coi là Dự án phổ thông có điều kiện. Như vậy là trong việc thành lập doanh nghiệp ở lĩnh vực đòi hỏi vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề, giấy phép kinh doanh theo qui định hiện hành và theo Dự thảo Luật doanh nghiệp thống nhất thì nhà đầu tư còn phải lập dự án để xin thêm Giấy chấp thuận đầu tư nữa và có thể còn phải được sự chấp thuận thêm của một vài cơ quan hành chính mới.
Chẳng hạn như thành lập doanh nghiệp kiểm toán, qui định hiện hành chỉ đòi hỏi 3 kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề thì được thành lập doanh nghiệp, nếu theo như dự thảo thì nhà đầu tư còn phải lập Dự án đầu tư để xin chấp thuận từ UBND tỉnh hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nữa...
Thứ năm, bất kỳ dự án đầu tư nào có qui mô vốn trên 1.500 tỷ đồng đều được coi là dự án quan trọng và phải trình Chính phủ, so với trước có thể thêm vài cơ quan hành chính Nhà nước tham gia thẩm định dự án.
Ví dụ như: các dự án xây dựng đô thị mới, ngoài việc xin phép các cơ quan ban ngành của UBND tỉnh, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên Môi trường, bộ chủ quản, Tổng công ty Nhà nước thì nay (theo dự thảo) có thể phải xin phép thêm Bộ Kế hoạch và Đầu tư....
Thứ sáu, là dự án không sử dụng vốn Nhà nước có qui mô trên 800 tỷ đồng trong lĩnh vực năng lượng, cơ khí chế tạo, ximăng... được coi là dự án quan trọng và phải được thẩm định để cấp phép đầu tư và phải trình Chính phủ, so với trước sẽ thêm vài cơ quan hành chính tham gia xét duyệt dự án nữa. Điều đáng lưu ý là để thẩm định 1 dự án thì có thể phải chịu sự điều chỉnh của nhiều Luật chuyên ngành, như vậy là nhà đầu tư sẽ phải chuẩn bị nhiều bộ hồ sơ cho các cơ quan Nhà nước khác nhau.
Thứ bảy, bất kỳ dự án đầu tư nào của doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước thì đều được coi như là dự án của doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, thủ tục ra quyết định sẽ rất phức tạp vì doanh nghiệp đó bị coi là doanh nghiệp Nhà nước.
Vấn đề đặt ra là thế nào là “ cổ phần chi phối “, trên thực tế 20% đã là chi phối nhưng không có nghĩa là quyết định được tất cả các vấn đề của doanh nghiệp. Nếu dùng thuật ngữ cổ phần chi phối như trên thì sẽ có hàng ngàn doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ được coi là doanh nghiệp Nhà nước.
Mục đích của cổ phần hoá là trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp, giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước, nay chúng ta lại định áp đặt trở lại cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước cho các doanh nghiệp cổ phần hoá hay chăng? (qui định tại Điểm 5 Điều 54).
Thứ tám, điều 66 qui định bất kỳ dự án đầu tư nào có vốn góp của Nhà nước, dù chỉ là thiểu số hoặc không đáng kể thì bắt buộc nhà đầu tư phải tổ chức giám định giá trị và chất lượng thiết bị nhập khẩu tạo tài sản cố định.
Các Luật hiện hành không qui định điều này, đây không phải là vấn đề kiểm soát đầu tư hay tăng cường quản lý Nhà nước mà là sự không hiểu biết về quản lý nhà nước sẽ cản trở đầu tư, hạn chế quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ chín, Điều 65 qui định bất kỳ dự án nào có xây dựng mà Nhà nước có vốn góp dù chỉ là thiểu số hoặc không đáng kể thì việc lập, thẩm định, phê duyệt kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán được thực hiện theo qui định của pháp luật về xây dựng.
Nếu qui định như vậy thì đã áp đặt đối tượng doanh nghiệp này là doanh nghiệp Nhà nước rồi, điều này hoàn toàn không có căn cứ.
Thứ mười, Điều 84 qui định bất kỳ dự án đầu tư nào không phân biệt qui mô vốn mà có cổ phần Nhà nước chiếm 30% trở lên thì phải thực hiện đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án theo qui định của pháp luật về đấu thầu. Qui định này can thiệp quá sâu vào qui chế quản trị doanh nghiệp.
TBKTVN