Tin tức
Chống phá giá không chỉ lo một chiều!

Chống phá giá không chỉ lo một chiều!

02/08/2006

Banner PHS

Chống phá giá không chỉ lo một chiều!

Khi công cuộc hội nhập ngày càng trở nên sâu và rộng, dường như những vấn đề “thời sự” trong thời gian qua chỉ tập trung vào những vụ việc bên ngoài biên giới, những tính toán mà hàng hóa Việt Nam phải đối phó khi xuất ngoại...

Khi công cuộc hội nhập ngày càng trở nên sâu và rộng, dường như những vấn đề “thời sự” trong thời gian qua chỉ tập trung vào những vụ việc bên ngoài biên giới, những tính toán mà hàng hóa Việt Nam phải đối phó khi xuất ngoại.

 

Trong khi đó ít cơ quan quản lý và giới doanh nghiệp chú ý tới nguy cơ xâm lấn của hàng hóa ngoại vào thị trường trong nước bằng những biện pháp được coi tương tự như hành vi phá giá.

 

Liên tục thời gian qua là những cảnh báo về nguy cơ một số mặt hàng xuất khẩu sẽ bị kiện bán phá giá trong thời gian tới. Sau 21 vụ kiện bán phá giá và 4 vụ kiện tự vệ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, một xu thế dễ nhận ra là các vụ kiện đối với hàng hoá Việt Nam diễn ra đang có xu hướng tăng dần và ngày càng hướng vào các mặt hàng chủ lực, gây ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của cả nước.

 

Việc tham gia ngày càng nhiều vào các thiết chế, các điều ước kinh tế quốc tế trong điều kiện kinh nghiệm, khả năng của các doanh nghiệp đều mới và yếu, ngành thương mại chỉ có thể khuyến cáo một giải pháp mang tính đối phó tạm thời là nhà xuất khẩu nên đa dạng hoá mặt hàng và đa dạng hoá thị trường để tránh rủi ro.

 

Công cụ pháp lý vẫn chưa có “đất dụng võ”

Bên cạnh “mặt trận” này, khi khả năng gia nhập WTO ngày càng hiện thực, đang xuất hiện ngày càng nhiều kiến nghị đề cập về các biện pháp đối phó ngược lại - chống bán phá giá hoặc trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Được xây dựng từ 2 năm trước, nhưng chế định pháp lý vẫn được coi là “mới mẻ” do thực tế vẫn chưa có “đất” áp dụng.

 

Kỳ vọng về việc tạo thêm một công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các ngành sản xuất trong nước, lợi ích lâu dài cho xã hội đồng thời tạo một cơ chế đồng bộ (cùng với Luật cạnh tranh, Pháp lệnh chống bán phá giá) để minh bạch trong hệ thống pháp luật Việt Nam xem ra, vẫn ở “thì tương lai”.

 

Với khung pháp lý hiện nay (đã có tới cấp nghị định hướng dẫn chi tiết) Việt Nam đã có một số công cụ (áp dụng thuế chống trợ cấp hoặc yêu cầu cam kết của phía nhà sản xuất, xuất khẩu) để xử lý đối với 5 hình thức trợ cấp mà nhà sản xuất, xuất khẩu vào Việt Nam được Chính phủ hoặc cơ quan đại diện nước xuất khẩu tiến hành như chuyển vốn, cho vay lãi suất ưu đãi; bỏ qua hoặc không thu khoản thu nghĩa vụ; cung cấp hàng hoá hoặc mua hàng với giá cao rồi bán lại giá thấp; góp tiền vào một cơ chế tài trợ và các biện pháp khác thể hiện sự không công bằng, hợp lý và trái với thông lệ quốc tế.

 

Tương tự, một sắc thuế chống bán phá giá sẽ được phán quyết khi cơ quan có thẩm quyền trong nước xác định được rõ biên độ bán phá giá cùng mối quan hệ và những thiệt hại mà việc bán phá giá gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước.

 

Sớm tham gia WTO để được buôn bán bình đẳng

Tuy nhiên, đang có nhiều ý kiến cho rằng, bài toán chống bán phá giá và trợ cấp hàng hóa nhập khẩu trên “sân nhà” không hề đơn giản. Việc tìm được bằng chứng thuyết phục cũng như các cơ sở để khởi kiện chống bán phá giá hoặc xác định hàng nhập khẩu có trợ cấp là việc làm hết sức khó khăn.

 

Từ vấn đề hỗ trợ từ Nhà nước, bộ máy tổ chức từ các hiệp hội, các hội đến nhân lực và thông tin từ các nhà sản xuất trong nước đều chưa đủ để có thể tiến hành các biện pháp xác minh chi phí sản xuất của các nhà xuất khẩu chứ chưa nói gì đến việc Chính phủ trợ cấp cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hay không. Đó là chưa kể, nhà sản xuất trong nước còn phải đối mặt với một vấn đề khó khăn nữa là chi phí khởi kiện và xét xử.

Ngay cả các nhà hoạch định chính sách Việt Nam khi xem xét tới khả năng cũng như tính khả thi của các biện pháp cũng cho rằng, chỉ nên được áp dụng ở mức độ cần thiết, hợp lý khi thiệt hại là “đáng kể” cho ngành sản xuất nội địa và không gây thiệt hại đến lợi ích chung của nền kinh tế xã hội trong nước.

 

Thậm chí, một vấn đề “tế nhị” cũng được các văn bản pháp quy ghi nhận là luôn có giải pháp tháo gỡ cho quan hệ thương mại song phương trong các trường hợp “căng thẳng”: Nhà nước Việt Nam có thể rà soát lại các biện pháp chống trợ cấp đã áp dụng sau 12 tháng cho nhà nhập khẩu khi có đề nghị của một hay nhiều bên có liên quan.

 

Từ đó, Bộ Thương mại sẽ có thể đưa ra quyết định tiếp tục hoặc gia hạn áp dụng các biện pháp chống trợ cấp, điều chỉnh mức thuế hoặc chấm dứt các biện pháp chống trợ cấp.

 

Giới chuyên môn cho rằng, để đối phó với việc bán phá giá, trước hết các hiệp hội ngành hàng của Việt Nam phải thực sự phát huy được tác động tích cực. Các doanh nghiệp đơn lẻ không đủ nguồn lực để tìm hiểu thị trường và thông tin về đối thủ, không đủ khả năng tài chính để tham gia vụ kiện.

 

Bên cạnh đó, người ta chỉ còn kỳ vọng vào việc Việt Nam sớm gia nhập WTO, vốn được coi là một “cái chợ” lớn với những luật lệ tương đối công bằng và các thành viên nhận được sự trợ giúp đáng kể từ các luật lệ, thiết chế của nó.

 

Tham gia vào WTO có nghĩa Việt Nam sẽ được hưởng những quy chế như các nước thành viên và tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh.

 

Quy tắc chống bán phá giá của WTO

Quy tắc chống bán phá giá mà hiện nay WTO dựa vào chính là Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994.

 

Theo Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.

 

Thuế chống bán phá giá chỉ có thể sử dụng để đối phó với những loại hình bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành công nghiệp nào đó, hoặc gây trở ngại nghiêm trọng cho việc xây dựng một ngành công nghiệp. Cụ thể,việc xác định giá sản phẩm có bán phá giá hay không căn cứ trên 4 quy tắc:

 

Thứ nhất: Lấy cơ sở giá bán hàng hoá cùng loại tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu. Khi không thể sử dụng giá này, phải sử dụng giá mà nước này xuất khẩu sang nước thứ ba làm chuẩn, hoặc xác định bằng cách cộng giá thành sản xuất với các chi phí hợp lý và lợi nhuận.

 

Hai là: Hàng chuyển khẩu thường được so với giá tương ứng của nước xuất khẩu.

Ba là: Nếu không có giá xuất khẩu hoặc giá này bị cho là không đáng tin, thì có thể lấy giá bán hàng nhập khẩu để xác định giá xuất khẩu.

Bốn là: Giá xuất khẩu và giá bán nội địa của nước xuất khẩu phải được so sánh ở cùng một trình độ thương mại.

TBKTVN

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh
(cũ: Phường Tân Phú, Quận 7)

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng