Tin tức
Chuẩn bị đưa Luật Thương mại vào cuộc sống

Chuẩn bị đưa Luật Thương mại vào cuộc sống

11/10/2005

Banner PHS

Chuẩn bị đưa Luật Thương mại vào cuộc sống

Từ ngày 1/1/2006, Luật Thương mại (sửa đổi) sẽ bắt đầu có hiệu lực. Để hướng dẫn thực thi Luật Thương mại, cần phải có 12 nghị định và 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ...

Từ ngày 1/1/2006, Luật Thương mại (sửa đổi) sẽ bắt đầu có hiệu lực. Để hướng dẫn thực thi Luật Thương mại, cần phải có 12 nghị định và 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

 

Bộ Thương mại đang hoàn thiện dự thảo các văn bản hướng dẫn để trình Chính phủ ban hành vào cuối năm nay. Vì vậy, Bộ vừa tổ chức hội thảo với các chuyên gia và doanh nghiệp về việc xây dựng một số nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thương mại.

 

Tại hội thảo, Bộ Thương mại đã đưa ra 3 dự thảo: Nghị định hoạt động xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh, gia công và đại lý háng hoá với người nước ngoài; Nghị định về xuất xứ hàng hoá; Nghị định về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.

 

Sau nhiều lần chỉnh sửa, lần này, dự thảo các nghị định được các chuyên gia đánh giá là đã khá hoàn thiện, đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cần thiết về quản lý cũng như tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.

 

Tuy nhiên, tại nhiều quy định cụ thể, doanh nghiệp đã có những ý kiến đề nghị bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp hơn.

 

Cần xây dựng các tiêu chí rõ ràng

 

Ban hành cùng với Nghị định về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện là danh mục 20 mặt hàng và 8 dịch vụ cấm kinh doanh.

 

Theo giải thích của Bộ Thương mại, đây là những hàng hoá dịch vụ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử văn hoá Việt Nam, sức khoẻ con người, động vật và môi trường... Tương tự là hai danh mục về hàng hoá dịch vụ hạn chế kinh doanh và danh mục hàng hoá dịch vụ kinh doanh có điều kiện.

 

Theo ông Nguyễn Văn Sáng - Vụ phó Vụ Chính sách thị trường trong nước (Bộ Thương mại), khi xây dựng các danh mục tổ soạn thảo đã lựa chọn rất kỹ, dẫn ra các văn bản quản lý chuyên ngành và chỉ rõ các cơ quan ban hành và quản lý trực tiếp các loại hình hàng hoá dịch vụ, những cái gì cần thiết mới đưa vào, nhưng vẫn có quá nhiều hàng hoá dịch vụ thuộc diện cấm, hạn chế kinh doanh hay kinh doanh có điều kiện.

 

Trong khi đó, nhiều bộ ngành liên quan khi được hỏi ý kiến đều muốn đưa thêm nhiều loại hàng hoá, dịch vụ vào danh mục này. Các doanh nghiệp đồng ý rằng việc cấm, hạn chế hay đề ra các điều kiện kinh doanh là cần thiết để đảm bảo một thị trường lành mạnh.

 

Tuy nhiên, cần có những tiêu chí cụ thể để chứng minh được những tác động gây phương hại đến con người, động thực vật và môi trường... Các quy định kỹ thuật phải có cơ sở khoa học, minh bạch để không tạo ra những trở ngại đối với hoạt động thương mại. Hơn nữa, các tiêu chí cần phải đáp ứng được yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế của từng thời kỳ.

 

Theo các chuyên gia thuộc Dự án hỗ trợ kỹ thuật thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (STAR), việc đưa ra ba danh mục bao gồm đầy đủ các hàng hoá, dịch vụ với các văn bản điều chỉnh tương ứng đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi xác định được tất cả các hạn chế đối với việc kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc minh bạch hoá chính sách.

 

Tuy nhiên, dự thảo không đưa ra các tiêu chí cụ thể khẳng định tại sao việc kinh doanh một số hành hoá dịch vụ nhất định lại bị hạn chế hoặc cần phải có điều kiện. Không đưa ra các tiêu chí rõ ràng để xác định doanh nghiệp nào sẽ được quyền kinh doanh hoặc cung cấp trong các lĩnh vực cụ thể, có thể sẽ dẫn đến tình trạng mỗi khi có một hoạt động kinh doanh nào đó bị hạn chế, cơ quan Nhà nước sẽ có thể "tùy ý" cho phép doanh nghiệp này được làm nhưng doanh nghiệp khác thì không.

 

Bên cạnh đó, nghị định tuy đã đề cập đến các điều kiện khi kinh doanh các mặt hàng trong danh mục hành hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện về cơ sở vật chất, con người... nhưng các quy định này còn chung chung và không hướng dẫn đầy đủ để doanh nghiệp có thể áp dụng được ngay.

 

Vì vậy, các chuyên gia cho rằng việc hạn chế và kinh doanh có điều kiện các hàng hoá và dịch vu phải có quy trình, tiêu chí quy định rõ ràng và được áp dụng đồng đều cũng như phù hợp với các tiêu chí đó cần phải phù hợp với các cam kết quốc tế.

 

Quy định cần sát với thực tế hơn

 

Thảo luận về Nghị định hoạt động xuất nhập khẩu, tham nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh, gia công và đại lý háng hoá với người nước ngoài, các doanh nghiệp đánh giá rất cao quan điểm tự do hoá hoạt động xuất nhập khẩu cho các loại hình doanh nghiệp.

 

Theo đó, thương nhân Việt Nam theo quy định của pháp luật được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và được nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề, ngành hàng đăng ký kinh doanh, trừ hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp cho rằng cần sớm ban hành danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu một cách rõ ràng và chỉ ra cơ quan ban hành các danh mục này để doanh nghiệp dễ thực hiện.

 

Một vấn đề mà rất nhiều doanh nghiệp đề cập đến là thời gian quy định cho việc tạm nhập tái xuất hàng hoá quá cứng nhắc. Theo quy định, hàng hoá tạm nhập, tái xuất được lưu lại tại Việt Nam không quá 90 ngày kể từ ngày hoàn thành thành thủ tục hải quan. Trường hợp cần gia hạn phải có văn bản đề nghị hải quan nơi làm thủ tục, mỗi lần gia hạn không quá 30 ngày và không quá 3 lần. Việc quy định thời gian quá cụ thể làm cho doanh nghiệp không có đủ sự linh hoạt cần thiết để tiến hành kinh doanh phù hợp với mục đích của mình đề ra.

 

Đại diện Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho rằng có nhiều loại hàng hoá, máy móc nhập khẩu phục vụ các công trình kéo dài đến hơn 6 tháng, 1 năm hoặc lâu hơn thì những quy định trên là không hợp lý. Hơn nữa, việc liên tục gia hạn sẽ "đẻ ra" nhiều thủ tục phiền hà mất thời gian. Vì vậy, nên quy định căn cứ trên thời gian hai bên ký hợp đồng.

 

Ông Trần Văn Đức, Tổng giám đốc Tổng công ty Xăng dầu cho rằng đối với hoạt động tạm nhập tái xuất và quá cảnh cần có thời hạn phù hợp với từng loại hàng hoá. Có thể nghiên cứu mở rộng biên độ thời gian chính thức, sau đó cho gia hạn nhưng thời gian gia hạn chỉ bằng 1/2 thời gian chính thức và không nên gia hạn quá 2 lần.

 

Một giải pháp được các chuyên gia dự án STAR đưa ra là: việc quy định thời gian cụ thể chỉ áp dụng trong trường hợp các thương nhân không xác định thời gian tái xuất trong hợp đồng. Còn đối với các thương nhân xác định thời hạn trong hợp đồng thì cho phép áp dụng thời hạn đó.

 

Về việc xây dựng các nghị đinh, bên cạnh đảm bảo bao quát hết thực tế hoạt động thương mại đã và đang diễn ra trên thị trường để quản lý và hướng dẫn doanh nghiệp thì các nghị định cũng cần phải tính đến lộ trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.

 

Ông Trương Quang Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Thương mại) cho biết, hiện nay, chúng ta làm luật trong tình huống đang đàm phán vào WTO, nhiều quy định và cam kết đang phục thuộc vào kết quả đàm phán nên chưa biết rõ. Vì vậy, việc xây dựng các văn bản pháp luật, ngoài việc dựa trên thực tế nảy sinh trong nước cũng như cam kết quốc tế để có để xây dựng luật.

 

Hiện nay, trong khi xây dựng luật, các cam kết quốc tế, khu vực đã được cập nhật để đảm bảo sự hài hòa, đáp ứng nhu cầu hội nhập, đảm bảo hoạt động thương mại quốc tế được thuận lợi. Phó thủ tướng Vũ Khoan đã yêu cầu các ban soạn thảo phải bám sát các yêu cầu, cam kết với tổ chức thương mại thế giới để xây dựng nghị định cho phù hợp với yêu cầu thực tế hội nhập.

TBKTVN

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh
(cũ: Phường Tân Phú, Quận 7)

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng