Gia nhập WTO: Thuế xuất nhập khẩu chịu tác động trực tiếp
Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là bài toán lớn phải tìm lời giải của các quốc gia trong quá trình đàm phán gia nhập cũng như khi đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này...
Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là bài toán lớn phải tìm lời giải của các quốc gia trong quá trình đàm phán gia nhập cũng như khi đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này.
Với Việt Nam, các yêu cầu về thuế khi đàm phán là hết sức rõ ràng, sức ép cắt giảm, thay đổi mạnh thể hiện ở cả 3 mặt: chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chính sách thuế trong nước và việc bổ sung, thay đổi các loại thuế đặc biệt, trong đó, thuế xuất nhập khẩu chịu sự tác động trực tiếp nhất.
Thuế xuất nhập khẩu tiên phong hội nhập
Điển hình là việc Việt
Theo đó, kể từ ngày 15/9 tới sẽ có tới trên 400 dòng thuế thuộc 117 nhóm mặt hàng nằm trong danh mục cắt giảm. Những mặt hàng điều chỉnh giảm thuế lần này gồm hàng điện tử, điện lạnh dân dụng, linh kiện ôtô, xe máy nguyên chiếc... Trong đó, hàng điện tử, điện lạnh dân dụng giảm từ 50% xuống còn 30-40%. Xe máy nguyên chiếc giảm từ 100% xuống 90%.
Ngoài ra, còn có một số mặt hàng giảm nhiều so với mức thuế suất hiện hành (từ mức 20- 40% xuống còn 0-5%) là những vật tư chuyên dùng cho ngành hàng không và một số ngành sản xuất khác mà trong nước không sản xuất được.
Có thể thấy, mặc dù chưa gia nhập WTO, nhưng trong khuôn khổ hợp tác khu vực và song phương, các dòng thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã phải có những bước tiên phong, hội nhập khá sâu rộng. Nổi bật trong đó là việc tham gia Hiệp định CEPT/AFTA và ký kết Hiệp định song phương Việt Nam- Hoa Kỳ.
Vì vậy, xét dưới góc độ thuế xuất nhập khẩu, trên thực tế Việt
Trong khung khổ CEPT/AFTA, tháng 12/2000, Chính phủ đã thông qua lộ trình tổng thể thực hiện CEPT của Việt Nam cho giai đoạn 2001-2006 để giảm thuế cho toàn bộ 97,07% số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Ngày
Theo lộ trình này có thể thấy thời gian thực hiện CEPT/AFTA của Việt
Tuy nhiên, nếu so với các nước thành viên ASEAN có cùng điều kiện là Lào, Myanmar và Campuchia thì tốc độ thực hiện CEPT của Việt Nam còn chậm bởi vì các nước này đã hoàn thành cơ bản nghĩa vụ cắt giảm thuế quan xuống còn 0-5% theo đúng quy định của CEPT/AFTA.
Cùng với việc cắt giảm thuế, các thủ tục hải quan của Việt Nam đã được đơn giản hóa và rút ngắn, các hạn chế định lượng như hạn ngạch và giấy phép đã được xóa bỏ, một số biện pháp phi thuế quan khác cũng sẽ dần được xóa bỏ trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi theo CEPT.
Thuế trở thành công cụ tăng thu ngân sách
Ở tầm rộng hơn là quan hệ thương mại trong tổ chức WTO, nguyên tắc tiếp cận thị trường đòi hỏi thuế suất thuế nhập khẩu phải được cắt giảm theo những cam kết mở cửa thị trường mà Việt
Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là sự cắt giảm này phải tuân thủ nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), tức là không có sự phân biệt đối xử với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ các quốc gia thành viên khác nhau.
Một quan chức tài chính nhận định, đến lúc này, thuế nhập khẩu chỉ được sử dụng như một công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước, chứ không thể được coi như một công cụ nhằm tăng nguồn thu ngân sách. Trong khi đó, hiện loại thuế này đang chiếm xấp xỉ 1/3 nguồn thu quốc gia mỗi năm.
Sau vòng đàm phán đa phương cuối cùng, Việt Nam đã cam kết cắt giảm mức thuế quan trung bình đối với thương mại hàng hóa xuống còn 20%, được coi là không quá cao so với mức thuế quan trung bình các nước tham gia WTO (15% đối với hàng công nghiệp và 20% đối với hàng nông nghiệp).
Tuy nhiên, mức thuế trên vẫn còn cao so với mức thuế quan trung bình của một số nước mới gia nhập trong thời gian gần đây, chẳng hạn như Mondova là 6,65%, Estonia 7,93%, Grudia 6,61% và Trung Quốc 10,1%.
Trên thực tế ở các vòng song phương, đặc biệt với Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc cho thấy việc đàm phán thuế suất cũng tiến triển thuận lợi, tuy một số mặt hàng đã giảm thấp hơn so với dự kiến ban đầu.
Ở trong nước, sức ép không chỉ thể hiện ở việc cắt giảm các dòng thuế, mà còn ở việc sửa đổi, bổ sung các quy định khung về thuế xuất - nhập khẩu. Những quy định bị coi nhược điểm và không phù hợp với thông lệ quốc tế như thuế suất, giá tính thuế, thời hạn nộp thuế, quy trình nộp thuế, xử lý vi phạm,... là những vấn đề đòi hỏi giải quyết cấp bách.
Cho đến nay, cơ chế thuế xuất nhập khẩu đã thống nhất về ưu đãi thuế giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, thống nhất các quy định về ưu đãi thuế tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Những điểm đáng chú ý khác là việc Việt Nam đã bổ sung thêm phương pháp tính thuế tuyệt đối tính trên đơn vị hàng hoá (điển hình là thuế xe ôtô cũ nhập khẩu), áp dụng giá tính thuế cho hàng hoá nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập theo hợp đồng theo đúng thông lệ quốc tế.
Thậm chí, Việt Nam cũng phải có những quy định mới về các mức thuế mới để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá, có một số sửa đổi nhằm khuyến khích tối đa xuất khẩu, hạn chế sơ hở để trốn thuế, nợ thuế như tăng thời hạn nộp thuế từ 15 ngày lên 30 ngày cho hàng xuất khẩu, thống nhất việc miễn thuế cho đầu tư trong và ngoài nước.
Không chỉ có vậy, các thủ tục cho hàng hóa xuất nhập khẩu cũng được thay đổi với nội dung quan trọng nhất là việc định giá hải quan phải dựa trên giá cả ghi trong hợp đồng ngoại thương theo đúng tinh thần quy định trong Hiệp định Định giá hải quan (ACV). Đây chính là sự cáo chung cho một thời gian dài áp dụng giá tính thuế tối thiểu trong biểu thuế xuất khẩu và nhập khẩu.
Ngoài WTO, Việt
Hiện tại, nội dung những cam kết của Việt
Hiện có 3 khu vực chính được tính tới ngoài WTO là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác khác (Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-New Zealand).
Tương tự, những cam kết về vấn đề trợ cấp của Việt
TBKTVN