Tin tức
Giảm giấy phép, cải thiện môi trường kinh doanh

Giảm giấy phép, cải thiện môi trường kinh doanh

28/10/2005

Banner PHS

Giảm giấy phép, cải thiện môi trường kinh doanh

Đã đến lúc khởi động lại việc loại bỏ các giấy phép không hợp lý. Nếu tiếp tục duy trì môi trường kinh doanh với những loại giấy phép này sẽ dẫn đến khác biệt với thế giới, gây khó khăn cho doanh nghiệp...

Đã đến lúc khởi động lại việc loại bỏ các giấy phép không hợp lý. Nếu tiếp tục duy trì môi trường kinh doanh với những loại giấy phép này sẽ dẫn đến khác biệt với thế giới, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

 

Theo thống kê mới đây của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, hiện nay chúng ta có tới 315 giấy phép kinh doanh các loại đang được vận dụng. Nhiều loại giấy phép kinh doanh có mục tiêu không rõ ràng, hiệu lực quản lý thấp, thiếu sự tham gia của người xin cấp phép..., tạo cơ hội cho lạm quyền, gia tăng nhiều khoản chi phí không chính thức.

 

Nhiều ý kiến cho rằng, thay vì chỉ tập trung vào loại bỏ bớt giấy phép kinh doanh, chúng ta cũng cần chú trọng tới việc xây dựng một cơ chế, phương pháp tiếp cận nhằm giám sát toàn bộ hệ thống này và phải được nhất thể hóa trong các luật doanh nghiệp chung, đầu tư chung và các nghị định, văn bản hướng dẫn.

 

Đây cũng là nội dung chính được đưa ra thảo luận tại các cuộc hội thảo do Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ phối hợp với các cơ quan quốc tế như ADB, GTZ và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp tổ chức vừa qua tại Hà Nội và Tp.HCM để bàn về hiện trạng và các giải pháp cho vấn đề giấy phép kinh doanh tại Việt Nam hiện nay nhằm đưa ra những chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh.

 

Chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của các chuyên gia kinh tế, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước xung quanh vấn đề này.

 

Nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh


Ts. Ngô Văn Điểm, Phó trưởng ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ

"Báo cáo của Ngân hàng thế giới hồi trung tuần tháng 9/2005 về hoạt động kinh doanh đã đánh giá Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện cải cách mạnh nhất cho hoạt động của doanh nghiệp vì đã có những cải cách trong đăng ký kinh doanh, có Luật phá sản mới, và các phương thức hợp lý hóa việc thực hiện hợp đồng và giảm chi phí đăng ký tài sản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nằm trong số 60 nước có môi trường hoạt động kinh doanh khó khăn nhất.

 

Theo công bố mới đây của tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới thì Việt Nam xếp hạng 81/117 nền kinh tế về chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2005, hạng 80 về cạnh tranh kinh doanh và hạng 92 về năng lực hành động của các cơ quan công quyền. Những đánh giá, số liệu này cho thấy mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh song kết quả đạt được còn khiêm tốn.

 

Để có vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam cần phải làm nhiều hơn nữa nhằm cải thiện môi trường này cả về xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện.

 

Năm 2005, chúng ta tập trung xây dựng hai luật mới là Luật doanh nghiệp thống nhất và Luật đầu tư chung nhằm hướng tới mục tiêu tạo một môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, có trật tự, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch và phù hợp với các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế. Song luật chỉ quy định chung về chính sách, quy tắc ứng xử, còn để đi vào cuộc sống thì cần có các nghị định, văn bản hướng dẫn.

 

Theo tôi, tại những văn bản này chúng ta cần quy định thật cụ thể, rõ ràng đầy đủ về giấy phép kinh doanh, đăng ký đầu tư và tập trung vào 3 vấn đề.

 

Thứ nhất, người dân được tự do kinh doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

 

Thứ hai, công chức trong bộ máy công quyền chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, phải thực sự là công bộc của dân, phục vụ dân chứ không được hành dân.

Thứ ba, cần tiếp tục rà soát, bãi bỏ những giấy phép con không thực sự cần thiết cho quản lý Nhà nước, trái lại gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, đồng thời có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc ban hành giấy phép, chứng chỉ mới.

 

Việt Nam đặt ra mục tiêu: đến 2010 sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp, song tôi nghĩ rằng chúng ta có thể có nhiều hơn nếu cải thiện được môi trường đầu tư kinh doanh, trong đó có việc cải cách mạnh mẽ về giấy phép kinh doanh. Để thực hiện được mục tiêu này, tôi nghĩ chúng ta cần làm 4 điều sau: một quyết tâm, một đổi mới và hai niềm tin.

Trước hết là quyết tâm chính trị để tạo được môi trường thuận lợi hơn nữa cho đầu tư kinh doanh, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân. Điều này phải được thực hiện triệt để từ trên xuống. Kinh nghiệm 20 năm đổi mới cho thấy rằng: khi chúng ta thực hiện cải cách từ trên xuống thì tốc độ sẽ nhanh hơn và kết quả sẽ tốt hơn.

 

Thứ hai, chúng ta cần đổi mới tư duy quản lý, chuyển từ cách nghĩ quản lý được đến đâu thì cho mở đến đó sang quản lý phải theo kịp sự phát triển. Và hai niềm tin chính là việc Nhà nước không thể làm tất cả được, không thể mãi duy trì cách dắt tay chỉ việc, mà phải đặt niềm tin vào người dân và tinh thần kinh doanh của họ, bởi họ biết rõ nhất cơ hội kinh doanh và cũng chính họ là những người chấp nhận dấn thân vào rủi ro và huy động nguồn lực.

 

Bên cạnh đó chúng ta phải tin vào thị trường, vào hàng triệu người tiêu dùng thông thái- những người sẽ theo dõi, phán quyết về sự ra đời, tồn tại phát triển hoặc tiêu vong, phá sản của doanh nghiệp trên thương trường. Nếu chúng ta thực hiện tốt những điều này thì tôi nghĩ rằng số lượng văn bản pháp luật sẽ ít đi, và quyền tự do kinh doanh của người dân sẽ tăng lên".

 

Cần có một bộ phận giám sát văn bản

 

GS.Ts Jong Seok Kim, Thành viên Ủy ban cải cách pháp luật Hàn Quốc

"Chúng ta rất cần xây dựng một hệ thống thường trực nhằm kiểm soát chất lượng pháp luật, được thực hiện bởi một bộ phận độc lập trong chính phủ; biến kiểm soát chất lượng pháp luật thành một phần trong chức năng hành chính của chính phủ. Tại Hàn Quốc, đó là Uỷ ban cải cách pháp luật có chức năng rà soát những đề xuất văn bản pháp luật mới hoặc các văn bản sửa đổi, kiểm tra các văn bản pháp luật hiện tại, đăng ký và công bố các văn bản pháp luật, kiểm tra hiện trạng thực thi văn bản pháp luật của các bộ ngành và xây dựng những hướng dẫn chính sách cơ bản về cải cách pháp luật và giám sát chất lượng văn bản pháp luật của các cơ quan chính phủ.

 

Chúng tôi đánh giá trên nguyên tắc: các văn bản pháp luật về kinh tế sẽ được giảm bớt (giải quy chế), các văn bản pháp luật về xã hội sẽ được cải thiện để cho hiệu quả hơn. Phương pháp xây dựng văn bản pháp luật sẽ chuyển từ hệ thống tiêu cực sang hệ thống tích cực để cải thiện tính minh bạch, giảm bớt tính tùy tiện trong quyết định của các công chức ở cấp thực hiện. Các văn bản pháp luật có mức độ tuân thủ thấp hoặc có chi phí lớn hơn lợi ích sẽ bị loại bỏ, các văn bản chồng chéo nhau sẽ được thống nhất thành một văn bản duy nhất. Và tất nhiên các văn bản pháp luật trái với các thỏa thuận quốc tế hoặc tiêu chí toàn cầu sẽ bị loại bỏ.

 

Tôi cho rằng vấn đề mấu chốt ở đây là chúng ta không thể hoàn toàn loại bỏ được những thủ tục hành chính vậy hãy cải thiện chất lượng của chúng và làm cho người ta tuân thủ chúng dễ dàng hơn. Bên cạnh đó nên chú trọng tới vai trò và khả năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc duy trì nguyên tắc và trật tự thị trường".

 

Xây dựng hệ thống giấy phép kinh doanh hiệu quả

 

Ông Jorge Velazquez Roa, Chuyên gia kinh tế thuộc ADB

"Chúng ta có hai phương pháp tiếp cận với cải cách giấy phép kinh doanh cơ bản là: "Từ dưới lên" và "Từ trên xuống". Với phương pháp "Từ dưới lên", chiến lược được xây dựng trên cơ sở sự đồng thuận cao, Chính phủ thiết lập một loạt các nguyên tắc và tiêu chí và áp dụng cho các bộ ngành cơ chế tự giám sát, được kiểm soát bởi một cơ quan trung ương, thường là ít có sự hỗ trợ từ các tổ chức khác. Đây là quá trình kéo dài và có thể làm suy giảm nguồn lực, vốn chính trị của quá trình cải cách. Phương áp này được áp dụng tại các quốc gia có định chế khá phát triển như Tây Ban Nha, Pháp...

Trong khi đó, phương pháp "Từ trên xuống" mang tính chiến lược cấp tiến, được hỗ trợ bởi một sự lãnh đạo thể chế mạnh.

 

Trên thực tế, cải cách được thực hiện theo một quy trình hỗn hợp của cả hai phương pháp và tuỳ thuộc vào nền kinh tế, chính trị cũng như bối cảnh của cải cách. Tại Việt Nam, cả hai phương pháp trên đều phải được đánh giá trong bối cảnh khung khổ thể chế hiện tại (hành chính và pháp lý) và sự hỗ trợ hành chính đối với quá trình cải cách.

 

Trước hết, để nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu giấy phép hiện tại một cách thành công, chúng ta cần có thủ tục đánh giá có hệ thống (đệ trình giấy phép; đánh giá và quyết định), bên cạnh đó là các tiêu chí khách quan nhằm đánh giá giấy phép riêng lẻ. Với giấy phép kinh doanh mới, chúng ta có các biện pháp khác nhau nhằm giám sát số lượng và chất lượng như: đánh giá, dự báo tác động của pháp luật về chi phí và lợi ích của giấy phép; tham vấn có hệ thống với các tác nhân khác nhau...".

 

Giám sát chặt chẽ việc ban hành giấy phép kinh doanh

 

PGS. Ts Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội

"Tôi có nhận xét rằng việc các doanh nghiệp có quan hệ tốt với giới công chức hành chính là một tiền đề tốt cho kinh doanh ở cả thế giới và nhất là ở Việt Nam, nơi mà sự tiếp xúc với giới hành chính dường như còn là việc xin được sự tự do cho kinh doanh. Các loại giấy phép kinh doanh nói chung bao gồm: chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn, giấy chứng nhận đăng kí, giấy phép, thẻ và các điều kiện kinh doanh khác.

 

Theo quy định tại điều 6 - Luật doanh nghiệp 1999, thì thẩm quyền ban hành giấy phép và điều kiện kinh doanh thuộc về Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ tại các luật, pháp lệnh, nghị định.

 

Trên thực tế hiện có tới gần 80% tổng số các loại giấy phép là do bộ ngành, cấp tỉnh ban hành và bản thân họ cũng không nắm chính xác được số lượng. Chính những điều này đã tạo nên nhiều bất cập trong thực tiễn như: không thống kê được có biết bao nhiêu loại giấy phép, điều kiện kinh doanh, và các cơ quan cấp phép nhiều khi cũng không lý giải được một cách rõ ràng, thuyết phục về mục tiêu của giấy phép; quy trình, tiêu chí cấp phép hay từ chối không rõ ràng; tạo cơ hội cho công chức lạm quyền, tham nhũng...

Bên cạnh đó là thời hạn cấp phép ngắn, gia hạn phức tạp; hiệu lực quản lí thấp, giám sát sau cấp phép yếu gây ra hệ quả là chỉ lo chặn đầu vào mà không theo dõi giám sát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp có tuân thủ theo các điều kiện, tiêu chí hay không và thiếu sự tham gia của người xin cấp phép, thiếu giải thích các quyền, lắng nghe giải trình của họ.

 

Tôi không nghĩ rằng việc rà soát và bãi bỏ được 100 hay 200 giấy phép là quan trọng nhất, mà cốt lõi của vấn đề là phải giám sát chặt chẽ quy trình ban hành các loại giấy phép kinh doanh.

 

Ban soạn thảo Luật doanh nghiệp thống nhất mới đây có đưa ra một số dự kiến cải cách về giấy phép kinh doanh như: cho phép các hiệp hội doanh nghiệp quyền kiến nghị Chính phủ rà soát điều kiện kinh doanh, quyền kiến nghị Chính phủ bãi bỏ những điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; Chính phủ phải rà soát định kì hàng năm hệ thống điều kiện kinh doanh hiện hành và bãi bỏ những điều kiện không còn hợp lí; kiến nghị minh bạch hồ sơ, điều kiện, thẩm quyền và thời hạn cấp phép và điều kiện kinh doanh và kiến nghị Chính phủ ban hành quy chế quản lí hệ thống điều kiện kinh doanh, có thể dưới dạng một nghị định.

 

Song với tư cách là một nhà nghiên cứu, tôi cho rằng những dự kiến cải cách này chưa thực sự giải quyết thấu đáo được vấn đề vì thẩm quyền của Chính phủ có hạn trước những văn bản được ban hành từ cấp cao hơn như luật, pháp lệnh. Chính phủ không thể bãi bỏ được một số quy định về giấy phép tại những văn bản này khi thấy nó bất hợp lý.

Ngoài ra, những lợi ích rất khác nhau của các bộ ngành cũng dẫn đến sự thiếu đồng thuận, gây nhiều khó khăn khi cần xóa bỏ một loại giấy phép nào đó. Vì thế điều quan trọng là chúng ta cần giám sát lập pháp, lập quy về giấy phép và điều kiện kinh doanh hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân vì những lợi ích công.

 

Cụ thể, tôi có kiến nghị chúng ta nên học tập một số quốc gia (chẳng hạn như Hàn Quốc) thành lập một ủy ban hay nhóm công tác đặc biệt, mang tính lâm thời giúp Chính phủ thống kê, rà soát và hệ thống hóa tất cả các giấy phép và điều kiện kinh doanh hiện hành. Minh bạch hóa quy trình cấp phép dựa trên tiêu chí rõ ràng, có thể tiên liệu được, hành vi của nhân viên Nhà nước phải được người dân giám sát. Tùy theo quyết tâm cải cách của Chính phủ, ủy ban hay nhóm công tác đặc biệt kể trên có thể được giao thêm các thẩm quyền nghiên cứu kiến nghị Thủ tướng bãi bỏ các giấy phép và điều kiện kinh doanh bất hợp lí (đây là một kiểu cải cách từ bên trên xuống).

 

Chúng ta cần tạo điều kiện cho báo chí, nghiệp đoàn, hiệp hội doanh nghiệp có một vai trò tích cực hơn trong phản biện chính sách và góp phần rà soát các điều kiện kinh doanh bất hợp lý hay thành lập các trang web giúp cho doanh nghiệp, người dân tiệm cận nhanh chóng các điều kiện kinh doanh và quy trình chấp thuận hay từ chối các điều kiện đó bởi cơ quan hành chính".

 

Tiếp tục "cởi trói" cho doanh nghiệp

 

Ts. Lê Đăng Doanh, Thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ

"Năm 2000, tổ công tác của Chính phủ đã tiến hành rà soát lại các loại giấy phép kinh doanh và thống kê được 402 giấy phép được lập ra trên cơ sở pháp lý của 6 luật, 10 pháp lệnh và 34 nghị định, sau đó đề nghị bãi bỏ 116 giấy phép, chuyển đổi 34 giấy phép khác sang các điều kiện kinh doanh.

 

Song sau một thời gian, một số cơ quan Nhà nước tỏ ra bất bình vì cảm thấy mình bị mất đi công cụ quyền lực để điều hành, quản lý, bên cạnh đó việc bãi bỏ các loại giấy phép lúc bấy giờ gặp những bất lợi nên cũng dừng lại không làm nữa. Và rồi lập tức các loại giấy phép con lại mọc ra. Người ta lợi dụng "chính sách treo", "quy hoạch treo"... để đẻ ra giấy phép.

 

Chẳng hạn như việc có phường nói do quy hoạch phường chỉ cho phép có ba hiệu phở nên không thể mở thêm hiệu phở thứ tư, hay việc quy định thanh nữ không được hành nghề cắt tóc, vì nó nhạy cảm...

 

Theo tôi, sở dĩ có tình trạng loạn giấy phép con như hiện nay chủ yếu là do lối tư duy lạc hậu, không quản được thì sinh ra giấy phép, theo kiểu vài người đau bụng bắt cả làng uống thuốc. Bởi vậy, điều cốt lõi để loại bỏ giấy phép con là phải thay đổi tư duy.

 

Nếu doanh nghiệp không lên tiếng, các cơ quan Nhà nước không thấy được những loại giấy phép vô lý, có hại thì chúng ta sẽ không có động lực và sáng kiến để bãi bỏ bớt giấy phép.

 

Ngoài ra, tôi cho rằng khi cấp giấy phép kinh doanh rất nên tham vấn ý kiến của các hiệp hội ngành nghề. Chính họ là người đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp, có thể cung cấp những thông tin về điều kiện, tiêu chuẩn kinh doanh, khả năng chuyên môn nghề nghiệp, chất lượng dịch vụ... của người được cấp giấy phép. Đồng thời, nên tạo cơ chế cho các doanh nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ hơn với những hiệp hội, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép, xác minh điều kiện kinh doanh.

 

Song chỉ thay đổi tư duy vẫn chưa đủ, ta cần xây dựng luật đồng bộ, tương thích hơn, tránh kẽ hở đẻ ra giấy phép con.

 

Tôi cho là trước hết chúng ta cần có một quy chế về việc phải thống kê, công bố công khai và kiểm định về các loại giấy phép. Sau đó, khi đã có giấy phép rồi cần kiểm tra việc thực thi, trình độ chuyên môn, quyền hạn trách nhiệm của viên chức thực hiện giấy phép kinh doanh đó như thế nào.

 

Trong tình hình hiện nay, chúng ta đã có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để quản lý hiệu quả, vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải khởi động lại việc loại bỏ các giấy phép không hợp lý. Vì nếu tiếp tục duy trì môi trường kinh doanh với những loại giấy phép này sẽ dẫn đến khác biệt với thế giới, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

 

Ta nên có cơ chế để tiếp tục "cởi trói" cho doanh nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ, vừa và ngoài quốc doanh. Việc rà soát và loại bỏ giấy phép bất hợp lý phải được thực hiện mạnh mẽ hơn, triệt để hơn để giúp cho môi trường kinh doanh được cải thiện tốt hơn".

 

Cải cách việc cấp giấy phép

 

Bà Phạm Chi Lan, Thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ

"Tôi cho rằng vấn đề giấy phép kinh doanh ở nước ta chậm được cải cách là do xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế đang chuyển đổi, cơ chế cũ chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Do đó quan hệ Nhà nước - thị trường chưa đủ rành mạch, còn mang nặng cơ chế xin-cho. Cải cách hành chính chậm hơn cải cách kinh tế, tư duy và năng lực của bộ máy hành chính chưa theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển sang Nhà nước phục vụ.

 

Những bất cập từ phía Nhà nước được nhận định trước hết là từ tư duy quản được đến đâu, mở đến đó. Nhiều cơ quan xây dựng quy chế dựa trên giả định doanh nghiệp hoặc người dân không đủ năng lực. Do đó đã hạn chế nhiều quyền tự do kinh doanh của người dân, bằng cách đưa ra các hình thức giấy phép, điều kiện kinh doanh.

 

Ngoài ra, chúng ta cũng chưa nhận thức đúng về lợi ích của Nhà nước với lợi ích của doanh nghiệp và cộng đồng do đánh giá sai, sợ trách nhiệm hoặc lợi dụng - lạm dụng danh nghĩa chung để mưu cầu lợi ích riêng. Chúng ta còn thiếu cơ chế giám sát quyền lực của Nhà nước nên dễ gây lộng quyền, lạm quyền. Một yếu tố khác cũng cần đề cập tới là sự hạn chế về trình độ, năng lực của một số bộ máy và cán bộ Nhà nước.

 

Về phía doanh nghiệp, người dân cũng chưa nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, trình độ năng lực tham gia xây dựng, giám sát thể chế và thực hiện quyền công dân còn hạn chế. Bên cạnh đó chúng ta vẫn còn kiểu trọng quan hệ hơn luật pháp, chạy chọt, xin xỏ hơn đòi quyền, lo riêng hơn lo chung.

 

Như vậy, để thực hiện cải cách giấy phép kinh doanh, tôi cho rằng giải pháp tổng thể, lâu dài là cần giám sát quy trình ban hành văn bản pháp quy, thẩm quyền của lập pháp và cơ quan hành chính, chú trọng chất lượng các văn bản pháp quy, đặc biệt tính minh bạch, nhất quán, dễ tiên liệu. Bên cạnh đó, chúng ta phải tạo dựng các thiết chế cho người dân thực hiện tốt, quyền được thông tin, được tham vấn, giám sát.

 

Quy trình cấp giấy phép kinh doanh cũng phải được giám sát về tính minh bạch khả thi, về trách nhiệm của cơ quan, công chức hữu trách và giám sát việc hậu kiểm. Chúng ta đang có chủ trương đẩy mạnh cải cách thể chế, cải cách hành chính, đa dạng hóa cơ cấu sở hữu (cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát triển khu vực kinh tế tư nhân).

 

Hiện nay, tôi tin rằng chúng ta đã có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc cải cách giấy phép kinh doanh do Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp đã mạnh lên, nhận thức tốt hơn; tiến trình hội nhập quốc tế với những luật chơi chung được áp dụng, kinh nghiệm phong phú của các nước sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều".

TBKTVN

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh
(cũ: Phường Tân Phú, Quận 7)

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng