Mười điểm vượt trội của xuất khẩu
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực đạt được sự vượt trội nhất trong thời gian qua. Sự vượt trội này được thể hiện ở mười điểm chủ yếu sau đây.
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực đạt được sự vượt trội nhất trong thời gian qua. Sự vượt trội này được thể hiện ở mười điểm chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, quy mô xuất khẩu đạt khá cao. Kim ngạch xuất khẩu bình quân 1 tháng bây giờ còn lớn hơn cả mức xuất khẩu đạt được cả năm trong các năm từ 1992 trở về trước; năm 2005 mới qua 8 tháng đã đạt gần 20,4 tỷ USD, cao hơn mức cả năm 2003 trở về trước.
Thứ hai, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP thuộc loại khá cao. Năm 2000 đạt 46,4%, năm 2001 đạt 46,3%; năm 2002 đạt 47,6%, năm 2003 đạt 50,7%; năm 2004 đạt 58,3%, ước năm 2005 đạt 61,5%.
Tỷ lệ năm 2003 của Việt Nam cao thứ 21 trong 131 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh. Điều này đã chứng tỏ độ mở cửa của nền kinh tế Việt
Thứ ba, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đã tăng nhanh qua các năm: năm 2000 đạt 221,3 USD, năm 2002 đạt 225,5 USD, năm 2002 đạt 249,9 USD, năm 2003 đạt 293 USD, năm 2004 đạt 323,1 USD, ước năm 2005 đạt gần 379 USD, tăng 71,3% so với năm 2000, cao gấp trên 12,2 lần năm 1991- năm nước ta bị hụt hẫng do CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ và năm còn bị Mỹ bao vây cấm vận.
Thứ tư, tốc độ tăng của xuất khẩu đạt khá cao qua các năm. Trừ năm 2001 tăng thấp (3,8%) do ảnh hưởng của sự sút giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới, còn các năm sau đó đều tăng với tốc độ khá cao: năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 20,6%, năm 2004 tăng 31,5%, ước năm 2005 tăng 18,8%. Ước năm 2005 gấp gần 2,2 lần năm 2000, bình quân 1 năm tăng 16,8%.
Hệ số giữa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu so với tốc độ tăng GDP trừ năm 2001 đạt thấp (gần 0,6 lần), còn các năm sau đều ở mức khá: năm 2002 đạt gần 1,6 lần, năm 2003 đạt trên 2,8 lần, năm 2004 đạt gần 4,1 lần, ước năm 2005 đạt trên 2,3 lần; bình quân 5 năm 2001-2005 đạt gần 2,3 lần. Đó là hệ số thuộc loại cao so với các nước trên thế giới trong thời gian tương ứng. Năm 2005 gấp 15,1 lần năm 1991, bình quân 1 năm tăng 21,4% - một tốc độ tăng cao, tăng liên tục tăng trong thời gian dài mà các thời kỳ trước chưa bao giờ đạt được.
Thứ năm, sự vượt trội của xuất khẩu đạt được ở cả 2 khu vực. Khu vực kinh tế trong nước năm 2004 đã đạt trên 11,7 tỷ USD, khả năng cả năm 2005 sẽ vượt qua mốc 13 tỷ USD, lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước từ năm 1999 trở về trước.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) còn đạt cao hơn năm 2004 đã vượt qua mốc 14,5 tỷ USD và khả năng cả năm 2005 sẽ vượt qua mốc 18 tỷ USD. Do tăng cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 55% trong năm 2004 và 56,3% trong 8 tháng đầu năm 2005.
Nếu không kể dầu thô, khu vực này năm 2004 chiếm 33,1%, 8 tháng năm 2005 chiếm 33,8%. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp của khu vực này một mặt đã phát huy lợi thế về vốn, về trình độ kỹ thuật- công nghệ, trình độ quản lý, tay nghề người lao động, tiếp thị, thị trường tiêu thụ..., mặt khác, đã tận dụng cơ hội tốt hơn để đẩy mạnh xuất khẩu khi các nước thực hiện cam kết giảm thuế suất thuế nhập khẩu, khi giá cả thế giới tăng cao.
Tới đây, khi Việt Nam mở cửa hội nhập sâu rộng hơn, đặc biệt là gia nhập WTO thì không chỉ những doanh nghiệp đã có của khu vực này tận dụng cơ hội mà còn có tác động mời gọi mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài - đã có dấu hiệu khởi sắc từ năm 2004 và sẽ gia tăng mạnh trong năm 2005 cũng như những năm tới.
Thứ sáu, xuất khẩu tăng đã được thực hiện ở hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đã được mở rộng ra các mặt hàng khác. Năm 2005, mới qua 8 tháng đã có 19 mặt hàng tham gia "câu lạc bộ 100 triệu USD" là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, gạo, sản phẩm gỗ; điện tử, máy tính; cà phê; than đá; cao su; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù; dây điện và cáp điện; hạt điều; sản phẩm nhựa, sản phẩm gốm sứ; rau quả; xe đạp và phụ tùng xe đạp; hạt tiêu; khả năng cả năm sẽ có thêm mặt hàng nữa là sản phẩm đá quý và kim loại quý.
Trong 19 mặt hàng này có 7 mặt hàng đầu đạt trên 500 triệu USD, khả năng cả năm sẽ có thêm 2 mặt hàng nữa là cà phê, than đá; có 5 mặt hàng đầu đạt trên 1 tỷ USD, khả năng cả năm sẽ có thêm 2 mặt hàng nữa là sản phẩm gỗ và điện tử máy tính.
Thứ bảy, kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng gần đây tăng do cả 2 yếu tố là lượng tăng và giá tăng - điều mà không phải năm nào cũng có được, bởi đã có nhiều năm lượng tăng thì giá giảm, giá tăng thì lượng giảm. Những mặt hàng có thống kê được về lượng (có thể cộng lượng được với nhau) đã tăng cả về giá, cả về lượng là than đá, gạo, cao su... Nhiều sản phẩm lượng giảm nhưng giá tăng khá như dầu thô, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè...
Thứ tám, về thị trường xuất khẩu mấy năm nay cũng có những yếu tố tích cực.
Trong thời kỳ 2001-2004, theo khối nước, trong khi tốc độ tăng trưởng chung đạt 16,3%/năm thì xuất khẩu vào các thị trường ASEAN tăng 9,6%/năm, APEC tăng 13,3%/năm, EU tăng 13,9%/năm, OPEC tăng 5,7%/năm. APEC tuy không phải là tăng cao nhất, nhưng lại là khối nước chiếm tỷ trọng lớn nhất (72,8%); EU là thị trường lớn thứ hai với tỷ trọng 18,1%; ASEAN là thị trường sớm nhất sau khi Mỹ bỏ cấm vận, hiện đứng thứ ba với tỷ trọng 14,3%...
Theo nước và vùng lãnh thổ chủ yếu, nếu năm 2000 mới có 7 lãnh thổ đạt trên 500 triệu USD (Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, Singgapore, Đài Loan, Mỹ, Đức), thì năm 2001-2003 tăng lên 8 (thêm Anh) và năm 2004 tăng lên 13 (thêm Hàn Quốc, Malaysia, Hà Lan, Pháp, Bỉ). Năm 2000 mới có 3 nước đạt trên 1 tỷ USD (Nhật Bản, Trung Quốc, Australia) thì năm 2001 tăng lên 5 (thêm Singgapore, Mỹ), năm 2004 tăng lên 7 (thêm Đức, Anh).
Thứ chín, bình quân năm trong thời kỳ 2001-2005 xuất khẩu của Việt Nam tăng 16,8%, cao hơn mục tiêu kế hoạch 5 năm đã đề ra. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng thực hiện vượt mức.
Thứ mười, do xuất khẩu tăng khá nên đã tạo điều kiện để nhập khẩu một khối lượng lớn thiết bị, vật tư để phục vụ đổi mới kỹ thụât-công nghệ và sản xuất, tiêu dùng ở trong nước. Trong 4 năm 2001-2004 đã nhập khẩu: 27.436,5 triệu USD máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, chiếm 29,4% tổng kim ngạch nhập khẩu; 59.326,3 triệu USD nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 63,7%; 6.410,4 triệu USD hàng tiêu dùng, chiếm 6,9%.
TBKTVN