Tin tức
Nhà máy giấy vẫn nằm… trên giấy

Nhà máy giấy vẫn nằm… trên giấy

16/03/2006

Banner PHS

Nhà máy giấy vẫn nằm… trên giấy

Theo Quyết định 868/QĐ-TTg ngày 01/10/2002, Thủ tướng đã phê duyệt Dự án giấy Thanh Hoá sản xuất bột giấy và giấy carton duplex, giấy bao gói, có tổng mức đầu tư 1.582,824 tỷ đồng...

Theo Quyết định 868/QĐ-TTg ngày 01/10/2002, Thủ tướng đã phê duyệt Dự án giấy Thanh Hoá sản xuất bột giấy và giấy carton duplex, giấy bao gói, có tổng mức đầu tư 1.582,824 tỷ đồng.

 

Nhưng 3 năm qua, dự án vẫn chưa triển khai một hạng mục nào vì không thu xếp được nguồn vốn do tính khả thi thấp. Hiện tại, chủ đầu tư phải điều chỉnh toàn bộ dự án, nhằm tránh những rủi ro quá lớn nếu tiếp tục theo đuổi mục tiêu ban đầu.

 

Nằm trên diện tích 86 ha tại xã Châu Lộc, Hậu Lộc Thanh Hoá, dự án sản xuất bột và giấy Thanh Hoá được khởi công ngày 09/02/2003, do Tổng công ty Giấy Việt Nam (Vinapimex) làm chủ đầu tư và Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp (MIE) làm tổng thầu theo hình thức EPC.

 

Chưa hoạt động đã… rẽ ngang

 

Theo đó, công suất giai đoạn I (2003 - 2009) của dự án ước 50 nghìn tấn bột và 60 nghìn tấn giấy/năm; giai đoạn II (từ 2010) ước 150 nghìn tấn bột và 150 nghìn tấn giấy năm. Nếu khả thi, dự án sẽ cung ứng đáng kể sản phẩm bột giấy, giấy bao gói và carton duplex cho thị trường, thay thế khá lớn số lượng nhập khẩu lâu nay.

 

Tuy nhiên, sau 3 năm kể từ ngày động thổ, đáng lẽ nhà máy đã bắt đầu khởi động thì dự án lại phải quay về vạch xuất phát (từ lập dự án, thẩm định, phê duyệt, tìm nguồn vốn...) và mục tiêu gần như “quay ngoắt” so với ban đầu.

 

Theo đó, thay vì sản xuất giấy 30 nghìn tấn giấy carton duplex và 30 nghìn tấn giấy bao gói/năm thì nay, mục tiêu được chỉnh lại là 60 nghìn tấn giấy bao gói xi măng và kraff line/năm.

 

Lý do của sự thay đổi này được ông Võ Sỹ Dởng, Tổng giám đốc Vinapimex lý giải: hiện tại ngoài 25 nghìn tấn duplex/năm của Giấy Việt Trì thì nhiều dự án giấy duplex khác cũng sắp đi vào hoạt động trong khi dự án giấy Thanh Hóa mãi đến 2009 mới có sản phẩm nên khó chiếm lĩnh thị trường.

 

Mặt khác, giấy bao gói xi măng và kraff line (bao bì chất lượng cao) đang có nhu cầu lớn nhưng nguồn cung không dồi dào. Hơn nữa, loại bột sunphát không tẩy trắng từ nguyên liệu tre, luồng tại Thanh Hoá phù hợp hơn cho sản xuất giấy bao gói xi măng và Kraff line.

 

Đối với nguồn vốn đầu tư của dự án, nếu theo QĐ 868, tổng mức đầu tư gần 1.583 tỷ đồng và chào thầu của MIE là 2 nghìn 204 tỷ 375 triệu đồng thì ngày 10/3/2006, tại cuộc họp các bộ ngành liên quan tìm cách tháo gỡ vướng mắc cho dự án do Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Bùi Xuân Khu chủ trì, Vinapimex đã đệ trình 2 phương án thu xếp nguồn vốn như sau:

 

Theo đó, phương án 1: tổng mức đầu tư là 1 nghìn 672 tỷ 775 triệu, tăng 89,95 tỷ so với  tổng mức đầu tư đã được phê duyệt tại QĐ và giảm 531 tỷ 559 triệu đồng so với chào thầu của MIE. Phương án 2: có tổng mức đầu tư là 1 nghìn 698 tỷ 765 triệu, tăng gần 26 tỷ so với phương án 1, tăng 115 tỷ 941 triệu đồng so với QĐ 868 và giảm 505 tỷ 609 triệu đồng so với chào thầu của MIE.

 

Theo ông Dởng, nếu theo phương án 2, nguồn vốn cho dự án cụ thể như sau: vốn ngân sách nhà nước: 86 tỷ 99 triệu đồng; vốn vay trả chậm nước ngoài từ tín dụng xuất khẩu của Trung Quốc 790 tỷ, lãi suất 5,3%/năm, thời hạn 10 năm, ân hạn 3 năm kèm khoản phí bảo hiểm 5,5% cho 85% giá trị thiết bị ngoại nhập của dự án; vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển khoảng 580 tỷ 925 triệu đồng, lãi suất 7,8%/năm, thời hạn 10 năm, 3 năm ân hạn cho công tác đặt cọc thiết bị (15%), xây lắp và các chi phí kiến thiết khác; vốn vay ngân hàng thương mại 130 tỷ đồng.

 

Ông Dởng nhận xét: mặc dù phương án 2 có tăng thêm gần 26 tỷ, cộng với bổ sung nguồn phí bảo hiểm vốn tín dụng xuất khẩu của Trung Quốc nên mức chênh của phương án 2 so với phương án 1 là 40 tỷ đồng nhưng do lãi suất vay từ nguồn này giảm từ 7,8%/năm xuống còn 5,3%/năm nên vẫn có lợi hơn.

 

Vì sao ngân hàng ngoảnh mặt?

 

Phải thấy rằng, do dự án giấy Thanh Hóa nằm ở nhóm A nên Quyết định 868 đã dành khá nhiều ưu đãi.

 

Cụ thể, trong 1 nghìn 582 tỷ 824 triệu đồng tổng vốn đầu tư, dự án được cấp vốn ngân sách để mua thiết kế, công nghệ xử lý môi trường và xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào (khoảng 123 tỷ); vay từ Quỹ Hỗ trợ phát triển khoảng 50% (ước 737 tỷ đồng)  với lãi suất 3%/năm, thời hạn 15 năm, 4 năm ân hạn (đối với phần thiết bị sản xuất trong nước) và phần còn lại (ước 538 tỷ đồng), vay 3 ngân hàng thương mại: Ngoại thương, Công thương và Đầu tư. Đồng thời, dự án còn được khấu trừ hoàn toàn thuế nhập khẩu và VAT đối với vật tư nhập khẩu.

 

Đáng lẽ, với những ưu đãi về cơ chế như vậy thì theo QĐ 868, đến 2006 dự án đã bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, khung cảnh dự án giấy Thanh Hóa sau 3 năm khởi công vẫn chỉ là bãi đất hoang và trên đó, lơ thơ một ít nhà xưởng do MIE bỏ tiền đầu tư.


Trước đó, quá sốt ruột vì tiến độ bị chậm, ngày
16/8/2004, Thủ tướng Phan Văn Khải đã chủ trì cuộc họp thường trực Chính phủ bao gồm các bộ ngành liên quan và cho ý kiến đối với dự án giấy Thanh Hóa.

 

Theo đó, Thủ tướng đã yêu cầu “Khẩn trương thực hiện dự án nhằm chủ động đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng bột và giấy trong nước; giao Quỹ hỗ trợ phát triển cho dự án vay tiếp phần vốn vay thương mại (đẩy áp lực vay Quỹ hỗ trợ phát triển cho dự án lên tới xấp xỉ 80% tổng mức đầu tư - PV). Đồng thời, Thủ tướng cũng giao Bộ Công nghiệp chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo chủ đầu tư và chủ thầu đẩy nhanh tiến độ dự án nhưng tình hình vẫn không sáng sủa hơn.

 

Mấu chốt của sự chậm trễ được Vinapimex cho rằng: do không thu xếp được nguồn vốn và năng lực của tổng thầu MIE hạn chế nên đã làm chậm tiến độ đầu tư. Tuy nhiên, thứ trưởng Bộ Công nghiệp Bùi Xuân Khu lại đánh giá sâu sắc hơn: “Việc không thu xếp được nguồn vốn là do Vinapimex nôn nóng, không tính hết các yếu tố bất lợi khác nên tính khả thi của dự án thấp, dẫn đến không được ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay.  Mặt khác, tổng thầu MIE cũng chưa thể đảm trách được vai trò vì đây là dự án lớn, vượt quá khả năng”.

 

Trên thực tế, tại cuộc họp ngày 10/3/2006, nhiều ý kiến cho rằng, Vinapimex đã bộc lộ yếu kém trong việc tính toán hệ số hoàn vốn nội tại (IRR) của dự án. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra, với hiệu quả thấp như vậy thì ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển không chấp nhận giải ngân là đương nhiên. Thêm vào đó, chủ đầu tư và tổng thầu lại không hợp tác tốt với nhau (Vinapimex nghi ngại khả năng của MIE) nên chần chừ, kéo dài thời gian DA. Do yếu tố thời gian kéo dài, cộng với tác động của mặt bằng giá nguyên liệu ngày càng tăng nên càng làm cho hiệu quả dự án xa rời với thực tế.

 

Lối thoát nào cho dự án?

 

Tại cuộc họp ngày 10/3/2006, rất nhiều đại diện các bộ ngành và các bên liên quan đã mổ xẻ nhiều nguyên nhân và thống nhất điều chỉnh dự án theo hướng thay đổi sản phẩm và hình thành nguồn vốn đầu tư mới.

 

Theo đó, trên cơ sở phân tích hiệu quả dự án, chủ đầu tư đề xuất với Chính phủ phương án khả thi nhất, trong đó chú trọng các vấn đề ưu đãi vốn và hạ tầng.

 

Tiếp theo, đối với phần máy móc thiết bị, đề xuất Thủ tướng cho phép đấu thầu quốc tế rộng rãi thay vì giao cho MIE đảm trách như trước đây. Thực ra, trong vấn đề chậm tiến độ dự án, còn có một nguyên nhân quan trọng khác. Nhằm tạo “cú hích” cho ngành cơ khí trong nước, Quyết định 868 đã yêu cầu dự án phải sử dụng tối thiểu 50% thiết bị sản xuất trong nước do tổng thầu MIE đảm nhiệm, chỉ được phép nhập khẩu những thiết bị mà Việt Nam chưa sản xuất được. Nhưng do năng lực yếu kém, MIE không những thất bại mà còn có nguy cơ khó thu hồi hơn 4 tỷ đầu tư ban đầu.

 

Trước thực tế này, Thứ trưởng Bùi Xuân Khu cho rằng: nên giành một tỷ lệ thiết bị (khoảng 20% tổng thiết bị DA) trong khả năng cho MIE cung ứng. Để cụ thể sản xuất được những gì, MIE cần liệt kê và trao đổi thống nhất với Vinapimex trước khi báo cáo Chính phủ quyết định.

 

Được biết, nếu dự án triển khai theo hướng này, nguồn vốn vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển theo phương án của Vinapimex đề xuất đã được chấp thuận. Đồng thời, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng đồng ý cho vay 10 triệu USD với điều kiện Vinapimex phải thu xếp đủ nguồn vốn.

TBKTVN

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh
(cũ: Phường Tân Phú, Quận 7)

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng