Sẽ phải đánh đổi giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô?
Mục tiêu kinh tế vĩ mô năm 2005 là đạt tốc độ tăng trưởng 8,5%, hiệu quả đầu tư nhà nước được cải thiện và ổn định lạm phát. Tuy nhiên, nhiều ý kiến tham luận tại hội thảo về giá sáng nay (24/3) cho rằng để cùng đạt được ba mục tiêu đó là rất khó và có thể sẽ phải có sự đánh đổi nhất định...
Mục tiêu kinh tế vĩ mô năm 2005 là đạt tốc độ tăng trưởng 8,5%, hiệu quả đầu tư nhà nước được cải thiện và ổn định lạm phát. Tuy nhiên, nhiều ý kiến tham luận tại hội thảo về giá sáng nay (24/3) cho rằng để cùng đạt được ba mục tiêu đó là rất khó và có thể sẽ phải có sự đánh đổi nhất định.
Ý kiến của TS. Võ Trí Thành, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, được báo giới chú ý từ sự diễn giải cởi mở và thẳng thắn. Theo ông, ba mục tiêu nói trên không phải lúc nào cũng đạt được cùng một lúc, mà có sự đánh đổi. Vì vậy, vấn đề đặt ra là tìm ra sự đánh đổi nhỏ nhất.
Một sự đánh đổi nhỏ nhất là phải gắn với việc xác định mục tiêu lớn nhất để quyết định các chính sách phù hợp. Và theo ông Thành, mục tiêu lớn nhất phải là ổn định vĩ mô, phải nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước.
“Để cho sự đánh đổi giữa ba mục tiêu là nhỏ nhất thì tốt nhất là mục tiêu hướng vào ổn định vĩ mô và bằng mọi cách thu hút đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân để phát triển, để tăng trưởng và đảm bảo được hai muc tiêu kia”, ông Thành nói.
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Thị Mùi, Viện trưởng Viện Khoa học Tài chính, lại cho rằng “trong bối cảnh 2005 này thì chúng ta không thể hy sinh mục tiêu này để đạt mục tiêu khác. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,5% vẫn phải đạt bằng được, mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 6,5% cũng phải cố gắng đạt được. Rõ ràng là để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô như vậy thì phải thực hiện những chính sách hữu hiệu”.
Còn theo bà Susan J.Adam, Đại diện thường trú cao cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, mục tiêu tăng trưởng 8,5% của Việt Nam không phải là bằng mọi giá để đạt được. Vấn đề là còn những mục tiêu khác. Với chỉ số giá tiêu dùng (CPI), có thể là từ 6,5 đến 7%, một mức có thể kiểm soát và quản lý được.
Chỉ số CPI và lạm phát cũng là nội dung chính mà hầu hết các đại biểu đề cập đến. Ở đây, các chuyên gia, các nhận định cũng đã có sự gặp nhau nhất định trong giải pháp và dự báo.
Năm 2005, áp lực tăng giá có quá lớn?
Bà Mùi khẳng định: “Áp lực tăng giá năm 2005 không phải là quá lo ngại đối với người dân cũng như các cơ quan quản lý vĩ mô, bởi vì theo suy nghĩ chủ quan của tôi thì bằng những chính sách của nhà nước, bằng những kinh nghiệm điều hành giá của năm 2004, chúng ta sẽ kìm được giá cả ở mức chấp nhận được”.
Tuy nhiên, ngoài những nguyên nhân khách quan từ thị trường thế giới, từ thiên tai, dịch bệnh trong nước…, bà Mùi cho rằng cần phải chú ý đến những áp lực khác. Đó là nhiều mặt hàng mà giá do Nhà nước quản lý dự kiến tăng trong năm 2004 nhưng chưa tăng được, mà trong năm 2005 sẽ tăng như sắt, than, chi phí vận tải, viện phí…
Một nguyên nhân khác là vốn đầu tư trong năm 2005 được Quốc hội phê duyệt là rất cao, cao nhất kể từ năm 1995. Có nhiều dự án lớn phục vụ cho nền kinh tế nhưng trong bối cảnh hiệu quả đầu tư chưa được cải thiện rõ rệt thì đây cũng là một áp lực làm tăng khối lượng tiền lưu thông.
Còn theo ông Võ Trí Thành, áp lực lạm phát của năm 2005 là có. Nguyên do là giá cả thế giới còn rất cao và bấp bênh. “Sự bấp bênh đó không chỉ do bên cung và bên cầu mà vai trò đầu cơ trên thế giới rất mạnh, mà khi có vai trò đầu cơ thì rất khó dự báo”, ông Thành nói.
Đáng chú ý là áp lực mất giá đối với đồng Việt
Một thuận lợi cho công tác bình ổn giá trong năm nay, theo ông Thành, là “vấn đề thông tin chúng ta làm tốt hơn năm ngoái; cam kết về ổn định vĩ mô của Chính phủ cũng rõ ràng và mạnh mẽ hơn”.
Những bài học kinh nghiệm
Một nội dung chính của hội thảo sáng nay là nhìn lại công tác bình ổn giá trong năm 2004, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho những năm tới. Ý kiến của TS. Võ Trí Thành được báo giới chú ý từ sự diễn giải cởi mở và thẳng thắn. VnEconomy xin tóm lược nội dung 5 bài học chính qua năm 2004 mà ông Thành đưa ra:
Thứ nhất: Không bao giờ được sao nhãng chính sách ổn định vĩ mô. Từ năm 2003, ở Việt
Thứ hai là vấn đề thông tin. Không chỉ là những thông tin giải thích cho công chúng mà còn là thông tin để dự báo, phân tích tác động. Năm 2004 là có nhiều vấn đề. Cho đến tận tháng 3, tháng 4 mới quan tâm đến những vấn đề như Trung quốc ảnh hưởng thế nào đến giá cả thế giới, và khi đó chúng ta mới xét đến Trung Quốc tiêu thụ bao nhiêu % than, xi măng thế giới… Cái nữa là khi mà xẩy ra hiện tượng lạm phát thì phân tích của chúng ta về tác động đối với các ngành khác nhau, giữa các nhóm dân cư khác nhau cũng chưa chuẩn.
Thứ ba là về phản ứng chính sách. Đối với những bất ổn định vĩ mô thì chính sách đầu tiên là chính sách vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa. Phản ứng của Việt
Thứ tư là can thiệp ở các ngành hàng cụ thể. Sự can thiệp của Nhà nước còn rất nhiều, độc quyền còn rất nhiều. Chúng ta phải nghĩ đến sự can thiệp tức thời, tức là can thiệp hành chính. Ví dụ như trong Pháp lệnh giá, chúng ta được quyền kiểm soát giá, có quyền can thiệp về hành chính. Nhưng năm vừa rồi cũng phải nói rằng kể cả cấp địa phương, rất nhiều can thiệp của chúng ta vượt ngoài luật, nhiều mặt hàng không nằm trong Pháp lệnh giá đâu. Can thiệp ở đây là can thiệp hành chính hay biện pháp kinh tế? Là thuế hay là trợ cấp? Can thiệp ngành nào, khi nào thì coi đó là cú sốc? Và khi can thiệp thì phải thông tin rõ ràng cho công chúng.
Thứ năm là vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Trong năm 2004, nói một cách nghiêm túc là khu vực doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành hàng tuy giữ vai trò chi phối trên thị trường nhưng đã không đóng được vai trò bình ổn giá. Ở đây có hai vấn đề: quan điểm của chúng ta về doanh nghiệp nhà nước, đó là một đơn vị lấy lợi nhuận làm chính hay là khi cần Nhà nước dùng nó như một lực lượng vật chất để ổn định thị trường, và khi dùng nó để bình ổn thì Nhà nước phải có hỗ trợ.
TBKTVN