Thảo luận: Xung quanh vấn đề lãi suất và tỷ giá
Ý kiến của TS. Phan Minh Ngọc về vấn đề tỷ giá và lãi suất trong một bài viết đăng trên VnEconomy mới đây đã nhận được nhiều phản hồi - đồng tình cũng như có một số điểm chưa nhất trí - từ phía bạn đọc. Để tác giả có thể làm rõ hơn quan điểm của mình, chúng tôi xin đăng nguyên văn bài viết dưới đây của anh...
Ý kiến của TS. Phan Minh Ngọc về vấn đề tỷ giá và lãi suất trong một bài viết đăng trên VnEconomy mới đây đã nhận được nhiều phản hồi - đồng tình cũng như có một số điểm chưa nhất trí - từ phía bạn đọc. Để tác giả có thể làm rõ hơn quan điểm của mình, chúng tôi xin đăng nguyên văn bài viết dưới đây của anh.
"Sau bài viết về lãi suất và tỷ giá đăng gần đây, tôi đã nhận được rất nhiều phản hồi từ phía độc giả. Theo yêu cầu của báo, tôi đã tập hợp một số ý kiến chưa đồng tình lại thành từng chủ đề và cố gắng trả lời thấu đáo trong bài viết này.
Chủ đề thứ nhất, đa phần ý kiến cho rằng điều chỉnh giá trị khoản tiền gửi tiết kiệm bằng USD (vốn cộng lãi) theo lạm phát của Mỹ trong bài toán gửi tiết kiệm bằng USD hay VND của tôi là sai, với lý do rằng ở Việt Nam thì cho dù có USD nhưng khi tiêu vẫn phải chuyển qua VND, và do đó phải điều chỉnh theo lạm phát của Việt Nam, chứ không phải của Mỹ.
Một phiên bản khác: Do anh sống ở Việt Nam, anh cũng phải đem tiền ra mua hàng hóa ở Việt Nam chứ không phải ở Mỹ, nên sức mua của số tiền anh kiếm được sẽ chịu tác động điều chỉnh của lạm phát Việt Nam, dù anh có gửi tiết kiệm bằng USD.
Trả lời: Những lý luận trên có một lỗ hổng lớn. Chúng đương nhiên coi rằng người sống trên đất Việt Nam nắm giữ USD thì chỉ có cách, chỉ được tiêu USD ở Việt Nam, hoặc phải đổi ra VND để tiêu ở Việt Nam. Thế nhưng chủ nhân của những lý luận này lại quên một thực tế hiển nhiên ở Việt
Có thể dễ dàng thực hiện nhiều giao dịch bằng USD ở hầu khắp mọi nơi nếu muốn. Nói cách khác, chí ít người ta vẫn có thể dùng USD để mua sắm hàng hóa có thể trao đổi thương mại (tradable goods) ngay ở Việt
Mà trên các thị trường hàng hóa chính của thế giới thì đồng tiền giao dịch là USD, và do đó lạm phát của Mỹ bao giờ cũng có mặt trong biến động giá cả những hàng hóa này. Bởi vậy, đương nhiên giá cả hàng hóa nhập khẩu về và bán ở Việt
Quan trọng hơn, người ta cần phải có USD để đầu tư ra nước ngoài, nhập khẩu, đi du lịch, chữa bệnh, học hành, thanh toán mua sắm vay nợ, trả lương cho nhân công nước ngoài, cho vay nước ngoài v.v..., và tất cả những khoản chi tiêu, đầu tư này đều tính theo hoặc biến động theo giá quốc tế (hoặc giá nước hướng đến, quy đổi ra USD).
Vậy rõ ràng người ta phải tính toán đến mức lạm phát của Mỹ chứ? Ai bắt một người đang sống trên đất Việt
Chủ đề thứ hai, một số ý kiến phê phán cho rằng cách tính tỷ giá thực song phương để suy ra rằng VND đã lên giá như của tôi là quá đơn giản, ấu trĩ vì Việt
Trả lời: Thứ nhất, đúng là có nhiều nước có quan hệ thương mại với Việt Nam, nhưng vai trò của Mỹ với tư cách là thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã trở nên quan trọng nhất trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi ký Hiệp định Thương mại Song phương (BTA) năm 2001.
Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ một lượng hàng trị giá đến 19-20% trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam, bỏ xa thị phần của nước quan trọng thứ hai là Nhật, khoảng 14-15%. Do đó, không thể phủ nhận rằng nếu VND lên giá thực tế so với USD thì một tỷ trọng lớn hàng xuất khẩu của Việt
Thứ hai, và quan trọng hơn, thực tế là USD đã và vẫn đang là một đồng tiền niêm yết trong đa phần các giao dịch thương mại quốc tế nói chung, trong giao dịch của Việt
Hãy lấy ví dụ ngay với Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh xuất khẩu nặng ký nhất của Việt Nam, và là nước có đồng tiền được cho là bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó nhiều so với USD. Nếu VND lên giá so với USD thì đương nhiên hàng xuất khẩu của Việt
Vì thế, ít nhất vì 2 lý do này, việc phá giá VND vẫn phải là một giải pháp không thể đừng nếu muốn kích thích xuất khẩu và/hoặc đạt được cân bằng trên tài khoản vãng lai.
Xin lưu ý thêm rằng cũng vì lý do tỷ giá thực song phương mà Mỹ luôn gây sức ép bắt Trung Quốc nâng giá đồng NDT vì cho rằng nó được định giá quá thấp so với USD và do đó làm thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc luôn ở mức lớn và có xu hướng tăng, mặc dù đồng NDT không hẳn là đang bị định giá quá thấp so với các ngoại tệ khác.
Ngoài ra, trong ấn phẩm “Vietnam: Country Economic Review” năm 2000, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đã dùng tỷ giá thực song phương để tính ra mức phá giá hay lên giá của các đồng tiền của các quốc gia trong khu vực trong và sau khủng hoảng kinh tế.
Chủ đề thứ ba, đại diện là ý kiến của TS. Trương Văn Phước, Vụ trưởng Vụ quản lý Ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước), đăng trong Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 30/2006, cho rằng trong cơ chế quản lý tỷ giá hiện nay, việc “thả nổi có điều tiết” và “thay thế tỷ giá chính thức bằng tỷ giá bình quân liên ngân hàng” đã “phản ánh mức tỷ giá do thị trường quyết định”, và do đó không có chuyện “ém” tỷ giá.
Trả lời: Có 3 điều cần nói ở đây. Thứ nhất, đã là tỷ giá thả nổi có “điều tiết” thì không thể nói là tỷ giá này “phản ánh mức tỷ giá do thị trường quyết định” được. Chỉ có tỷ giá thả nổi hoàn toàn (như ông Phước viết ở cuối bài) mới thật sự là mức do thị trường quyết định.
Điều này còn được chính ông minh họa thêm khi viết: “giá thị trường được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố và một biên độ được ấn định sẵn”. Cả 2 yếu tố “tỷ giá chính thức” và “biên độ được ấn định sẵn” đều là 2 yếu tố chủ quan (do Ngân hàng Nhà nước đặt ra), đặc biệt là yếu tố thứ hai, chứ không phải là khách quan (do thị trường đặt ra).
Do đó, tỷ giá được “điều tiết” từ 2 yếu tố này không nhất thiết phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Thứ hai, có lẽ “thị trường” ở đây cần phải được nói chính xác hơn là thị trường giao dịch chính thức chứ không phải là thị trường tự do, là cái mà tôi cho rằng mới phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ thật sự ở Việt Nam (kể cả nhu cầu đầu cơ mà pháp luật không cấm đoán), bởi nó vận động không theo một khuôn phép ràng buộc nào (không bị điều tiết) như ở thị trường chính thức. Mà tỷ giá trên 2 thị trường này hiếm khi giống nhau!
Dựa trên hai điều này, ta không thể nói rằng tỷ giá đã hoàn toàn vận động theo quy luật thị trường và, vì thế, khả năng “ém” tỷ giá là không thể hoàn toàn phủ nhận được. Bởi chính ông Phước cũng cho biết rằng: “Có thể nói trong “dung dịch thả nổi có điều tiết” của cơ chế tỷ giá đã lựa chọn thì “nồng độ thả nổi” ngày càng tăng lên”.
Điều này có nghĩa là ít nhất cho đến bây giờ vẫn còn một “nồng độ không thả nổi”, tức là vẫn có can thiệp ở một mức độ nào đó. Chỉ khi nào Việt
Thứ ba, có liên quan đến, và là minh chứng cho 2 điều trên, là một tính toán sử dụng tỷ giá thực đa phương (REER) của TS. Trần Ngọc Thơ trên TBKTSG (số 30/2006) cho thấy nếu phản ánh đúng tỷ giá thực thì tỷ giá danh nghĩa VND/USD vào cuối năm 2005 có thể vào khoảng 16.073,8. TS. Thơ cho rằng VND vẫn được định giá cao hơn USD một chút.
Như vậy, dù tính bằng cách nào đi nữa (tỷ giá thực song phương hay đa phương) thì kết quả vẫn cho thấy rõ ràng rằng VND đã lên giá so với USD khá nhiều tính đến thời điểm cuối năm 2005. Thế nhưng cho tới tận hiện nay nó vẫn chưa được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh đến mức mà các tác giả đã tính toán ra!
Chủ đề thứ tư là về tính cạnh tranh tương đối của hàng hóa Việt Nam, được cho là không bị suy giảm trong 5 năm qua, phản ánh qua sự biến động của REER. Người đại diện cho ý kiến này vẫn là ông Phước với lập luận công phu và kín kẽ nhất.
Trả lời: Ông Phước có thể đúng khi cho rằng VND không lên giá so với năm cơ sở nếu dựa vào REER, và tức là tính cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nhưng điều này không có nghĩa là tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam không sụt giảm so với từng nước đối tác, bởi REER chỉ là một chỉ số cho thấy hàng hóa của Việt Nam đắt hay rẻ tương đối so với của các nước đối tác với tư cách là một nhóm (để phân biệt với từng nước riêng lẻ).
Do đó, sự tăng giảm của REER giữa 2 thời kỳ cũng chỉ phản ánh sự tăng giảm tương đối giá cả của Việt
Điều này có thể hiểu rõ hơn trong minh họa sau. Trọng lượng bình quân của 1 người trong một nhóm người là 60 kg một tháng trước. Sau một tháng, trọng lượng bình quân này tăng lên thành 61 kg. Anh A có trọng lượng tháng trước là 58 kg, tháng này là 60 kg. Từ những dữ liệu này không thể kết luận rằng số cân tăng lên của anh A (2 kg) lớn hơn của anh B nào đó trong nhóm người này, mặc dù trọng lượng trung bình của cả nhóm chỉ tăng 1 kg. Để khẳng định được điều này thì phải đem so sánh trực tiếp anh A với anh B.
Trở lại vấn đề trên, kể cả nếu VND không lên giá thực tế so với rổ tiền tệ tham chiếu, nhưng rất có thể VND đã lên giá so với USD, hoặc EUR, hay một đồng tiền nào đó trong rổ tiền tệ, và chỉ có cách tính tỷ giá thực tế song phương của tôi mới khẳng định được điều này. Như đã tính toán, VND thực tế đã lên giá so với USD, là đồng tiền quan tâm và là đồng tiền của nước nhập khẩu hàng Việt
Do đó, cũng như đã nói ở chủ đề thứ hai bên trên, điều này đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt
Chủ đề thứ năm là về cách tính tỷ giá thực song phương và đa phương. Lại xin lấy ý kiến của ông Phước làm đại diện vì có phân tích sâu sắc và rõ ràng nhất.
Ông viết rằng: “Nếu chỉ dùng chênh lệch lạm phát để quyết định tỷ giá thì làm sao giải thích được từ năm 2001 đến nay đồng euro tăng giá 36,74% so với đô la Mỹ, không lẽ lạm phát của Mỹ cao hơn lạm phát của châu Âu đến 36,74%? Do đó, hoàn toàn sai lầm nếu REER chỉ được tính phiến diện với một đồng tiền duy nhất (Đôla Mỹ), chỉ sử dụng lạm phát của hai nước (Việt Nam và Mỹ) cũng như bỏ qua phép so sánh tỷ giá danh nghĩa của tất cả các đồng tiền trong rổ ở hai thời điểm năm cơ sở và hiện hành.”
Trả lời: Lập luận này có 2 thiếu sót. Thứ nhất, ông Phước hoàn toàn quên rằng tôi có tính đến cả mức tăng tỷ giá danh nghĩa của VND/USD trong tính toán của mình. Cụ thể hơn, tôi lấy mức tăng tỷ giá danh nghĩa trừ đi mức chênh lệch lạm phát, chứ không chỉ dựa vào chênh lệch lạm phát như ông viết. Nếu tính theo cách này thì ông sẽ không thể có con số 36,74% trên, và sẽ chẳng có gì đáng mang ra nói ở đây.
Thứ hai, cái mà tôi tính toán ra là tỷ giá thực tế song phương, là cái tất nhiên chỉ bao gồm một tỷ giá danh nghĩa duy nhất, VND/USD. Còn cái ông nói đến là tỷ giá thực tế đa phương (REER), là cái tất nhiên phải tính như ông viết, và là cái mà tôi không đề cập tới trong bài viết ông nói đến. Như vậy, vấn đề đơn giản là vì “ông nói gà, bà đá vịt”.
Ngoài những chủ đề chính trên, còn có một số ý kiến khác, nhưng đa phần là không logic, hoặc người thứ ba có thể thấy ngay là không hợp lý, hay câu trả lời đã quá rõ ràng nên tôi không nêu lại ở đây nữa.
TBKTVN