Thương mại Trung - Mỹ, không chỉ là tuần trăng mật
Từ góc độ kinh tế, Trung Quốc và Mỹ cần nhau hơn ai hết để cùng phát triển nền kinh tế của mình. Có thể nói, hai nền kinh tế này là đối tác tự nhiên của nhau...
Từ góc độ kinh tế, Trung Quốc và Mỹ cần nhau hơn ai hết để cùng phát triển nền kinh tế của mình. Có thể nói, hai nền kinh tế này là đối tác tự nhiên của nhau.
Thật vậy, một nước có tỷ lệ tiêu dùng cao nhất thế giới như Mỹ không thể thiếu một nhà cung cấp lớn nhất thế giới như TQ. Có thể có nhiều nước sản xuất được mặt hàng TQ đang cung cấp cho Mỹ, song không ai có đủ năng lực sản xuất lớn như TQ và cũng không ai có thể đảm bảo nguồn cung vững vàng trong mọi thời điểm cho khách hàng tốt như TQ.
Tuy nhiên, gần đây, một vài biểu hiện xuất hiện trong mối quan hệ kinh tế đáng mơ ước
Thiệt hại đơn giản nhất có thể thấy rất rõ ràng là người tiêu dùng Mỹ mất đi một nguồn cung hàng phong phú và hợp túi tiền mỗi khi chính quyền Trung ương của mình làm khó với quốc gia bên kia bờ Thái Bình Dương. Cao hơn một chút, các biện pháp bảo hộ mậu dịch của Mỹ gần đây với hàng TQ sẽ khiến tình trạng lạm phát và cất tiền vào tài khoản tăng lên trong khi tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Nhưng còn rất nhiều điều đáng nói khi hai đối tác tự nhiên này không vừa ý nhau.
Mỹ không còn thích tự do hoá thương mại?
Khoảng 25 năm trở lại đây, Mỹ luôn là nhà vô địch trong việc áp dụng và cổ suý cho tự do thương mại.
Bằng chứng cho chính sách này là việc
Thế nhưng, khoảng 4 năm trở lại đây, tức là từ khi TQ tìm được chỗ đứng dưới bầu trời WTO, dường như cuộc chinh phục nền thương mại toàn cầu chững lại rõ rệt và nhiều khi có những cư xử ngược chiều. Hàng loạt chính sách bảo hộ thương mại được áp dụng, từ việc tái áp quota đối với hàng loạt chủng loại hàng dệt may chiến lược của TQ cho tới khi đưa ra các biện pháp bảo hộ phi thuế quan như bắt một số doanh nghiệp xuất khẩu TQ không được đóng thùng bằng gỗ...
Trước đây ít năm, những hành động như vậy của các nước khác luôn nhận được những yêu cầu sửa đổi từ phía Mỹ, và đi kèm với đó là những biện pháp trả đũa thương mại.
Một ví dụ tiêu biểu: hôm 25/2/2005, 20 nghị sĩ đến từ những bang chủ chốt về nông nghiệp của Mỹ đã gửi thư tới đại sứ Nhật Bản yêu cầu sớm dỡ bỏ lệnh cấm nhập thịt bò, nếu không sẽ phát động một cuộc chiến thương mại để trả đũa cho vụ việc này. "Nếu Chính phủ Nhật Bản không dỡ bỏ lệnh cấm đã ban hành trước đây, chúng tôi e ngại rằng Quốc hội Mỹ sẽ thông qua lệnh trừng phạt về kinh tế nhằm trả đũa cho thái độ này", bức thư gửi Đại sứ Ryozo Kato nhấn mạnh.
Như vậy, có thể thấy lập trường ủng hộ 100% cho tự do hoá thương mại toàn cầu như Mỹ luôn tự nhận đã có những thay đổi lớn. Đó cũng là điều dễ hiểu đối với một nền kinh tế lớn đang bị đe doạ bởi một thế lực đang lên khác. Song vấn đề là Mỹ lại phải chịu thiệt hại từ những biện pháp đó.
Những thiệt hại Mỹ phải hứng chịu
Việc
Trong thời gian gần đây, Mỹ bảo vệ nông nghiệp nội địa bằng trợ giá nông nghiệp, một trong những biện pháp bảo hộ mậu dịch nấp dưới vỏ bọc an ninh lương thực. Các nước, đặc biệt là TQ và Ấn Độ, đang yêu cầu Mỹ mở rộng cửa thị trường nông sản trong nước, song các trại chủ và các Hiệp hội nông nghiệp ở miền Nam nước Mỹ lâu nay vẫn gây sức ép, thậm chí mặc cả với Hai Viện để bảo hộ cho họ.
TQ là nước xuất khẩu lớn thứ hai với Mỹ. Năm 2004, Mỹ nhập tới 200 tỷ USD hàng hoá từ TQ, chiếm 14% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ. 14% với một nước như TQ có thể coi là nhỏ, song nếu nhìn vào cơ cấu mặt hàng thì khác hẳn. Đa số hàng TQ xuất sang Mỹ là hàng tiêu dùng, mặt hàng có thể tạo hiệu ứng và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. |
Thái độ bảo hộ của Mỹ gần đây cũng góp phần làm cho quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu của WTO ngày càng đáng lo ngại. Các cuộc thương thảo bế tắc trầm trọng và vòng đàm phán
Song thiệt hại lớn nhất cho Mỹ có thể là uy tín. Từ lâu nước này vẫn được coi là một nền kinh tế thị trường hàng đầu thế giới. Được coi là chuẩn mực của phát triển kinh tế tư bản, thường thì nước này thường phê bình các đối tác, chẳng hạn cho rằng nền kinh tế của họ chưa thật sự là kinh tế thị trường.
Thế nhưng, sau vụ chính quyền
Chưa hết, nếu Mỹ thành công trong việc ép TQ định giá lại đồng nhân dân tệ, thâm hụt thương mại của Mỹ có thể sẽ giảm trong thời gian trước mắt, song lạm phát của Mỹ và hàng loạt ảnh hưởng lâu dài của nó lại cũng xuất hiện đồng thời.
Nói tóm lại, việc Washington áp đặt các biện pháp bảo hộ mậu địch đối với hàng hoá đến từ Bắc Kinh gây ra cơn giận cho đối tác lớn này, nhưng quan trọng hơn là gây ra nỗi lo cho chính nền kinh tế Mỹ.
Lấy một ví dụ cụ thể về tập đoàn bán lẻ số 1 nước Mỹ để thấy rõ thiệt hại đó: sự phát triển của các công ty sản xuất với giá thành rẻ mạt ở Trung Quốc, Ấn Độ là một nguồn lợi cơ bản cho Wal-Mart. Mỗi năm Wal-Mart mua khoảng 1,5 tỉ USD hàng hóa từ Trung Quốc, môt nửa mua trực tiếp, một nửa qua các trung gian. Các biện pháp bảo hộ nhằm làm giảm nguồn hàng này ngay lập tức sẽ tác động tới Wal-Mart. Như đã nói ở trên, có nhiều nước có thể cung cấp hàng cùng loại cho Wal-Mart, song chắc chắn không nơi nào có thể cung cấp số lượng lớn, ổn định về cả số lượng và giá cả cho Wal-Mart như Trung Quốc.
Do vậy, nhiều nhà kinh tế dự báo rằng mối quan hệ thương mại Trung - Mỹ không thể nào khác hơn là mối quan hệ đối tác. Theo họ, đó là mối quan hệ cần thiết và không thể chỉ là một tuần trăng mật ngắn ngủi.
VNN