Trung Quốc đã làm gì để có sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ?
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (TQ) đã tăng tốc kể từ khi bắt đầu chính sách đổi mới kinh tế cách đây đúng 25 năm, bình quân 9,5%/năm và sẽ còn duy trì các năm về sau.
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (TQ) đã tăng tốc kể từ khi bắt đầu chính sách đổi mới kinh tế cách đây đúng 25 năm, bình quân 9,5%/năm và sẽ còn duy trì các năm về sau.
Mức tăng trưởng này được đánh giá là bền vững và nhanh nhất trong lịch sử kinh tế thế giới 50 năm qua. Độ lớn của nền kinh tế TQ (nếu tính theo giá cả hiện thời) đã vượt tổng các nền kinh tế của các quốc gia chủ yếu trong Cộng đồng châu Âu. Với đà tăng trưởng này, OECD dự báo TQ có thể trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới trong đầu thập niên tới.
Đằng sau sự tăng trưởng thần kỳ này là một cuộc cách mạng sâu sắc, từ các chính sách kinh tế vĩ mô đến sự thay đổi tận gốc năng suất - hiệu quả của các doanh nghiệp.
Thay đổi sâu sắc các chính sách vĩ mô
Chính sách kinh tế đã liên tục được thay đổi theo hướng nới lỏng ngày càng nhiều hơn sự kiểm soát của chính phủ đối với thị trường, bắt đầu từ khu vực nông nghiệp cách đây hơn 20 năm, sau đó mở rộng sang công nghiệp rồi cuối cùng là khu vực dịch vụ. Qui định giá bán sản phẩm hay dịch vụ của chính phủ đã chấm dứt vào năm 2000.
Đồng thời với việc xóa bỏ kiểm soát giá cả, chính phủ ban hành luật doanh nghiệp, trong đó lần đầu tiên cho phép thể nhân sở hữu doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Chính phủ cũng thi hành mạnh mẽ luật về cạnh tranh để thống nhất thị trường trong nước, trong khi đó môi trường kinh doanh được cải thiện sâu sắc hơn bằng cách cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TQ, giảm thuế, bãi bỏ độc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của nhà nước và chấm dứt chế độ áp dụng nhiều tỉ giá hối đoái.
Động lực hướng về một nền kinh tế tự do hơn được tiếp sức với việc TQ gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) năm 2001 và kết quả là TQ đã tiêu chuẩn hóa một số lượng lớn các luật và qui định, tạo ra triên vọng cắt giảm thuế quan nhiều hơn nữa. Thật ra sự thay đổi nền tảng là việc sửa đổi hiến pháp năm 2004, nhấn mạnh vai trò của bộ phận không thuộc nhà nước quản lý trong việc khuyến khích hoạt động kinh tế quốc nội và bảo vệ tài sản tư nhân khỏi sự cưỡng đoạt chuyên chế.
Năm 2005, các qui định ngăn cản sự thâm nhập của các công ty tư nhân vào một số lĩnh vực của nền kinh tế như hạ tầng cơ sở, các ngành phục vụ công cộng và dịch vụ tài chính bị xóa bỏ. Nhìn chung, những thay đổi này cho phép sự nôi lên một bộ phận tư nhân hùng mạnh trong nền kinh tế TQ và bộ phận này đã đóng một vai trò chủ chốt.
Từ 1998 - 2003, sản lượng của các doanh nghiệp tư nhân do trong nước sở hữu đã tăng năm lần và các doanh nghiệp tư nhân do nước ngoài kiểm soát đã tăng ba lần. Ngược lại, sản lượng của các doanh nghiệp sở hữu nhà nước chỉ tăng hơn 70% cùng kỳ.
Năng suất cao hơn của hầu hết các công ty tư nhân dẫn tới tăng sản lượng. Các công ty tư nhân có động cơ thúc đẩy sử dụng vốn và lao động tinh gọn so với các doanh nghiệp nhà nước. Nhìn chung, năng suất của các doanh nghiệp tư nhân trong khu vực công nghiệp ước tính cao gấp hai lần các doanh nghiệp sở hữu nhà nước.
Tính lợi nhuận của các công ty tư nhân đã tăng đáng kể, đến năm 2003 tỉ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản là 15%. Mức cạnh tranh cao như vậy giúp kinh tế tư nhân chiếm 3/4 tổng sản lượng xuất khẩu năm 2003. Trong khi phần xuất khẩu chính yếu do các công ty nước ngoài kiểm soát thực hiện thì bộ phận doanh nghiệp tư nhân do trong nước sở hữu đã nỗ lực tăng năm lần sản lượng xuất khẩu của mình trong năm năm tính đến 2003 khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa được cấp giấy phép tham gia xuất khẩu.
Nhìn chung, tăng trưởng trong khu vực sở hữu tư nhân đã tác động thuận lợi đến thu nhập thực tế và hoạt động kinh tế vĩ mô, thúc đẩy năng suất trên nhiều mặt của ngành công nghiệp tăng 10% trong năm năm. Với quyết định của nhà nước trong năm 2005 cho phép các xí nghiệp tư nhân thành lập doanh nghiệp trong nhiều khu vực trước đây bị hạn chế, năng suất trên nhiều mặt đang được tiếp tục cải thiện.
Cải tổ to lớn hệ thống ngân hàng
Điều quan ngại của chính quyền trong việc tiến tới một tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn có lẽ do lo lắng ngân hàng dễ bị tác hại bởi các khoản vay nước ngoài và bởi sự yếu kém của hệ thống này. Tuy nhiên, công việc cải tổ đang được tiến hành một cách mạnh mẽ.
Cho đến năm 1995, các ngân hàng phải tập trung phân bổ tín dụng theo chính sách của nhà nước. Kết quả của chính sách này đã làm cho nợ khó đòi tích lũy trong hệ thống ngân hàng lên đến 4 tỉ nhân dân tệ, chủ yếu là các món vay thời kỳ trước 1999. Kể từ sau thời điểm này, TQ bắt đầu tiến hành cải tổ sâu rộng hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng đã bắt đầu hiện đại hóa các phương pháp cho vay và quản lý rủi ro. Ngân hàng nhà nước đưa vào áp dụng phương pháp tính toán cân đối phân tán rủi ro và hệ thống phân loại nợ quá hạn cho các ngân hàng. Nhà đầu tư n??c ngồi được phép tham gia vốn ở 12 ngân hàng cổ phần loại 2. Công cuộc cải tổ ngân hàng đã thành công. Từ 2000 trở đi, các khoản cho vay từ các ngân hàng có chất lượng tốt hơn.
Với việc cải tổ hạ tầng cơ sở hệ thống ngân hàng, chính phủ đã bắt tay vào chiến lược tái xác định lại vốn của các ngân hàng lớn và chuẩn bị niêm yết các ngân hàng lên thị trường chứng khoán. Quá trình thiết lập hệ thống ngân hàng vững mạnh đã tiến hành thành công ở hai ngân hàng lớn và đang bắt đầu với ngân hàng thứ ba.
Tháng 7-2005, Chính phủ TQ đã đánh giá lại giá trị của đồng nhân dân tệ cùng với thay đổi liên quan đến sắp xếp tỉ giá hối đoái, cho phép TQ linh động hơn trong việc kìm hãm lạm phát trên thị trường sản phẩm và tài sản. Bằng cách này, sức mạnh thị trường sẽ đóng vai trò hơn nữa trong việc xác định lãi suất ngân hàng của nền kinh tế TQ.
Cải cách doanh nghiệp nhà nước
Chính phủ đã tiến hành chương trình cải cách sâu rộng ở bộ phận thuộc nhà nước sở hữu. Đây là thành phần chủ yếu của nền kinh tế TQ vào những năm 1990. Các xí nghiệp sở hữu nhà nước được chuyển đổi thành tập đoàn theo hình thức do pháp luật qui định và nhiều công ty loại này được niêm yết trên các thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đã bắt đầu hoạt động từ đầu những năm 1990. Từ năm 1998 chính sách để các doanh nghiệp nhỏ mua và tái cấu trúc các công ty lớn được thực hiện một cách thành công. Chương trình này làm cho số lượng các xí nghiệp công nghiệp do nhà nước kiểm soát giảm hơn một nửa trong vòng năm năm.
Hợp đồng lao động được qui định linh hoạt hơn làm cho lao động trong bộ phận công nghiệp giảm hơn 14 triệu người trong năm năm, tính đến năm 2003. Quá trình này được trợ giúp bởi các chương trình trợ cấp xã hội và trợ cấp thất nghiệp nhằm chuyển trách nhiệm bồi thường do giảm biên chế lao động dôi dư từ doanh nghiệp sang cho nhà nước. Cuối cùng trong năm 2003, chính phủ hợp lý hóa sự kiểm soát trên các doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát hơn nữa bằng cách tạo ra một cơ quan chịu trách nhiệm thực thi quyền sở hữu của nhà nước và thúc đẩy thành quả của những doanh nghiệp này.
Bảng : phần trăm tham gia của các thành phần kinh tế trong GDP của TQ
|
(Nguồn: OECCD - Economic survey of China 2005)
TTCN