Vì sao tỷ giá ổn định?
Có một nghịch lý là trong gần 2 năm qua, nhất là từ đầu năm đến nay, trong khi lãi suất nội tệ thường xuyên tăng thì tỷ giá giữa Đồng Việt Nam và Đôla Mỹ (VND/USD) lại ổn định...
Có một nghịch lý là trong gần 2 năm qua, nhất là từ đầu năm đến nay, trong khi lãi suất nội tệ thường xuyên tăng thì tỷ giá giữa Đồng Việt
Trong 7 tháng đầu năm 2005, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê chỉ tăng có 0,5%, còn tỷ giá giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với khách hàng và tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chỉ tăng dưới 0,40%.
Câu hỏi được đặt ra là trong khi chỉ số tăng giá tiêu dùng 7 tháng đầu năm 2005 đã là 5,6%, thì tại sao tỷ giá VND/USD lại ổn định như vậy? Nó có ảnh hưởng gì đến xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài của Việt
Trước hết phải khẳng định rằng, tỷ giá VND/USD ổn định tạo thuận lợi cho cả xuất khẩu và cả nhập khẩu, nhất là vay nợ nước ngoài của Việt
Nếu tỷ giá VND/USD tăng, tức là Đồng Việt
Thứ hai, tỷ giá tăng, tác động lên yếu tố đầu cơ. Bởi vì các nhà kinh doanh tư nhân không chính thức và các ngân hàng thương mại thường xuyên kỳ vọng vào tỷ giá tăng, nên sẽ đầu cơ USD. Tác động dây chuyền lại làm cho tỷ giá VND/USD tăng, gây bất lợi cho nền kinh tế.
Vậy tại sao tỷ giá VND/USD lại tương đối ổn định? Nói chính xác hơn là chỉ tăng nhẹ trong gần 10 năm gần đây, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực xẩy ra năm 1997-1998.
Cụ thể năm 1998 tăng 9,6%, 1999: 1,1%, 2004: 3,4%, 2001: 3,8%, 2002: 2,1%, 2003: 2,2%, 2004: 0,40% và dự báo cả năm 2005 cũng sẽ chỉ ở mức 0,4%. Hay nói cách khác, tháng 7/2005 so với kỳ gốc năm 2000, nếu chỉ số tăng giá tiêu dùng của cả nước là 25,8%, thì tỷ giá VND/USD chỉ tăng có 11,7%.
Có thể lý giải bởi một số nguyên nhân chính sau đây:
Một là, Ngân hàng Nhà nước Việt
Cụ thể, mức tỷ giá mua bán của ngân hàng thương mại với khách hàng cuối tháng 7/2005 so với đầu tháng 1-2003, tỷ giá VND/Euro tăng 17,6%; VND/JPY (Yên Nhật) tăng 7,2%; VND/GBP (Bảng Anh) tăng 10,3%; VND/USD tăng 2,9%.... Cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong những năm gần đây là ổn định và có linh hoạt theo diễn biến thực tế. Cơ chế điều hành đó được thực hiện bằng biện pháp công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Hai là tỷ lệ nhập siêu trong những năm gần đây giảm so với cách đây 10 năm. Nếu như trong giai đoạn 1993-1998, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam bình quân trên 30%/năm, có năm tới 53,6%; thì từ năm 1999 đến nay tỷ lệ này bình quân chỉ còn 15%/năm, năm 1999 chỉ có 1,7% và năm 2004 là 21%.
Tuy nhiên, mức độ nhập siêu được bù đắp bằng cán cân vốn và cán cân thanh toán, nguồn thu vãng lai. Nhất là nguồn kiều hối đạt trên 3,0 tỷ USD vào năm 2004. Lượng khách du lịch quốc tế khoảng 3,0 triệu người/năm chi tiêu một lượng lớn ngoại tệ tại Việt
Ba là, lãi suất tiền gửi ngoại tệ từ năm 2001 đến nay giảm mạnh và có khoảng cách xa so với tiền gửi nội tệ. Lãi suất tiền gửi nội tệ tại ngân hàng thương mại cùng kỳ hạn gấp 2-3 lần lãi suất USD. Gần đây lãi suất tiền gửi USD có tăng, nhưng lãi suất tiền gửi nội tệ cũng tăng, nên vẫn giữ mức độ chênh lệch khoảng 2-3 lần. Trong khi đó, tỷ giá lại ổn định, nên nhiều người có xu hướng lựa chọn Đồng Việt
Thực tế, tỷ trọng tiền gửi USD trong tổng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại trong một số năm gần đây có xu hướng giảm. Xu hướng đó cũng cho thấy, mức độ Đôla hoá trong xã hội và Đôla hoá trong hệ thống ngân hàng thương mại giảm.
Bốn là, các "cơn sốt" USD trên thị trường nước ta những năm gần đây hầu như không xẩy ra như các năm của thập niên 90. Trong năm 2004 chỉ có 2-3 đợt biến động nhẹ do yếu tố tâm lý về phát hành tiền mới có mệnh giá lớn hơn và một số yếu tố khách quan khác. Từ đầu năm 2005 đến nay chỉ có 1 đợt biến động nhẹ và diễn ra chỉ 1-3 ngày sau đó lại trở lại bình thường. Hay nói cách khác, thị trường ngoại tệ trong nước ổn định.
Cộng với nghệ thuật điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là để tỷ giá biến động 2 chiều, nên hầu như loại bỏ được yếu tố đầu cơ, lại càng làm cho thị trường ngoại tệ ổn định. Cả người dân lẫn doanh nghiệp tính toán nếu đầu cơ ngoại tệ, hay lựa chọn USD gửi ngân hàng thương mại sẽ bị thiệt so với Đồng Việt
Năm là, một yếu tố dễ dàng nhận thấy là thực lực nền kinh tế Việt
Do đó, thực lực sức mua Đồng Việt
Khi đồng tiền quốc gia - nội tệ ổn định xét trên quan hệ với các ngoại tệ mạnh, thì sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo sự an tâm cho đông đảo dân chúng và các doanh nghiệp. Người dân mạnh dạn bỏ vốn ra làm ăn, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc đầu cơ vàng của người dân hầu như không còn, việc đầu cơ và cất trữ ngoại tệ đã giảm mạnh.
Thiết nghĩ, trong giai đoạn tới, Chính phủ cần kiên trì đeo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, nhất quán mục tiêu ổn định sức mua Đồng Việt Nam, cho dù còn có một số ý kiến khác nhau về vấn đề nhậy cảm này.
TBKTVN