Vốn nước ngoài trong NHTM:: Có nên nâng tỷ lệ lên 49%?
Đã có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh tỷ lệ khống chế nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại, nhất là sau khi Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) gửi bản góp ý lên Thủ tướng Chính phủ đối với Dự thảo Nghị định về Tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam...
Đã có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh tỷ lệ khống chế nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại, nhất là sau khi Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) gửi bản góp ý lên Thủ tướng Chính phủ đối với Dự thảo Nghị định về Tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Để giúp độc giả có một cái nhìn tổng thể và đa chiều hơn về vấn đề này, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu bài viết sau của TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền. Các ý kiến khác của bạn đọc, xin vui lòng gửi về hộp thư vet@hn.vnn.vn.
Tôi đã đọc bản góp ý của Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) gửi lên Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước đối với Dự thảo Nghị định về Tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tôi xin có một số ý kiến chủ quan trao đổi thêm xung quanh kiến nghị nâng tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại từ 30% (như đề cập trong Dự thảo Nghị định về Tổ chức tín dụng nước ngoài) lên 49% (như đề cập trong góp ý của VAFI).
Tôi hiểu rằng những đề xuất mang tính đột phá của VAFI dựa trên mong muốn hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển nhanh, mạnh trên cơ sở thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngoài.
Tuy nhiên, dù là nhà kinh tế ủng hộ “chủ nghĩa” mở cửa kinh tế, tôi tin rằng việc nâng tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại Việt Nam lên 49% có thể là nguy hiểm đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong dài hạn.
Trước mắt, cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh quy mô vốn của những ngân hàng thương mại Việt Nam còn quá nhỏ bé, nếu mở “room” cho nhà đầu tư nước ngoài lên 49% vốn góp trong ngân hàng thương mại Việt Nam chắc chắn sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư mà theo VAFI là trong 5 năm tới, có thể thu hút đầu tư vào 4/5 tổng số ngân hàng thương mại.
Hiện nay, với tỷ lệ khống chế ở mức tối đa là 30% và mỗi nhà đầu tư chiến lược nước ngoài bị khống chế ở mức tối đa 10%, thì các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đầu tư vào những ngân hàng có quy mô vốn tương đối và làm ăn hiệu quả, bỏ qua những ngân hàng quy mô vốn nhỏ và làm ăn chưa hiệu quả nên như VAFI nhận xét là nguồn vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ vào 1/3 tổng số ngân hàng thương mại.
Hơn nữa, tỷ lệ khống chế 10% đối với từng nhà đầu tư nước ngoài còn khiến họ có thể chưa trở thành nhà đầu tư “chiến lược” mà theo đuổi mục đích đầu tư sinh lời.
Tuy nhiên, liệu trong 5 năm tới, quy mô vốn của các ngân hàng thương mại Việt
Trong tương lai, quy mô vốn còn tăng lên nhiều hơn từ việc sáp nhập, thôn tính giữa các ngân hàng Việt
Do đó, nếu tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại Việt Nam được nâng lên 49%, thì mức quy mô vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam có thể nâng lên 400 triệu USD/ngân hàng, tức là sẽ thu hút được thêm rất nhiều vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Các ngân hàng thương mại Việt
VAFI cho rằng nếu nâng tỷ lệ lên 49% và mỗi nhà đầu tư nước ngoài bị khống chế tối đa ở mức 30% thì khả năng chi phối của nhà đầu tư nước ngoài cao hơn nhưng không tuyệt đối. Tuy nhiên, tôi nhìn thấy ở một số ngân hàng thương mại cổ phần, chủ tịch hội đồng quản trị cũng chỉ nắm giữ tối đa hơn 30% số lượng cổ phiếu trong khi ở những nước công nghiệp phát triển, chủ tịch hội đồng quản trị của một ngân hàng có quy mô vốn lớn thì chỉ nắm hơn 10% số lượng cổ phiếu.
Do đó, nếu nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tới 30% thì chắc chắn rằng họ cũng phải có tiếng nói vô cùng quan trọng trong hội đồng quản trị. Nếu các nhà đầu tư nước ngoài “liên kết” thì lúc đó tiếng nói của họ sẽ tương đương 49% lượng vốn góp và chắc chắn khả năng chi phối của họ là tuyệt đối.
VAFI cho rằng nhà đầu tư nước ngoài có thể làm đối tác chiến lược của hơn một ngân hàng. Như vậy, khó mà có cạnh tranh giữa hai ngân hàng cùng có vốn góp của một nhà đầu tư nước ngoài, bởi nhà đầu tư nước ngoài sẽ theo đuổi cùng một chiến lược với hai ngân hàng.
Hơn nữa, sự sáp nhập của hai ngân hàng từ đó rất có thể được ngầm thúc đẩy một cách nhanh chóng hơn và những nhà đầu tư nước ngoài khi đó sẽ nắm giữ 49% của một ngân hàng mới có quy mô vốn lớn hơn.
Ba trường hợp trên cho thấy nếu tỷ lệ khống chế nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại Việt Nam được tăng lên 49%, sự phụ thuộc của các ngân hàng thương mại vào nhà đầu tư nước ngoài rất lớn nhất là khi các ngân hàng thương mại không ngừng tăng vốn và có thể sáp nhập, thôn tính nhau thì lượng vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất quan trọng.
Ta thử hình dung một kịch bản là doanh nghiệp của đối tác chiến lược nước ngoài bỗng nhiên đổ vỡ, phá sản hoặc “rút vốn”, ngay cả sau đúng thời gian cam kết thì hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ như thế nào?
Ngân hàng vốn là một lĩnh vực nhạy cảm bởi nó liên quan tới dòng tiền chảy trong nền kinh tế, nó là trung gian giữa nguời có tiền và nhà đầu tư vay vốn, nếu ngân hàng mất tính thanh khoản, rơi vào khủng hoảng thì người dân sẽ hoảng loạn và toàn bộ nền kinh tế khủng hoảng theo phản ứng dây chuyền.
Trong bối cảnh hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng cũng như hệ thống kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước còn quá yếu, thì việc mở cửa quá nhanh sẽ là không thận trọng. Bài học khủng hoảng tài chính
VAFI so sánh Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển về quy mô vốn trung bình của các ngân hàng, về tỷ lệ tham gia góp vốn và kiến nghị phải học tập các nước này, trong khi lại cho rằng không thể so sánh Việt Nam với Trung Quốc vì quy mô các ngân hàng ở Trung Quốc lớn hơn Việt Nam nhiều.
So sánh đó khập khiễng vì quy mô vốn của các ngân hàng phải quan hệ hữu cơ với quy mô nền kinh tế. Những nền kinh tế lớn đương nhiên có các ngân hàng với quy mô vốn lớn, Việt Nam tất nhiên không thể tìm cách “bắt chước” cho có bằng được những ngân hàng với quy mô vốn lớn như vậy.
Mặc dù quy mô vốn của các ngân hàng Trung Quốc lớn hơn Việt Nam, nhưng vẫn có thể so sánh với Việt Nam ở điểm tại sao Trung Quốc vẫn áp dụng tỷ lệ khống chế 29,9% đối với nhà đầu tư nước ngoài mà không nâng lên 49% để thu hút lượng vốn góp nhiều hơn và tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài trở thành nhà đầu tư chiến lược theo tỷ lệ góp vốn cao hơn?
Điểm giống giữa Việt
Trường hợp mà tôi thấy tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại lên tới hơn 70% ở các nền kinh tế chuyển đổi là các nước Đông Âu như Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc, ngân hàng thương mại của những nước này mở cửa hoàn toàn cho các tổ chức tín dụng đến từ Tây Âu, đặc biệt là Đức, Pháp, Anh, Áo, Thụy Sỹ.
Tuy nhiên, việc mở cửa hoàn toàn và nhanh chóng hệ thống ngân hàng của họ xuất phát từ việc đổ vỡ của Liên Xô dẫn tới chiến lược phải gia nhập Liên minh châu Âu một cách gấp rút. Chiến lược mở cửa gấp rút (choc therapy) của họ cũng đã phải trả giá bằng suy thoái kinh tế suốt giai đoạn 1993-1997. Việt
Hiện nay, ở Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại Nhà nước và có tới hơn 30 ngân hàng thương mại cổ phần. Việc sáp nhập ngân hàng có thể là một xu thế tất yếu bởi các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ nhận thấy áp lực cạnh tranh quá lớn trong việc huy động vốn nhất là trong bối cảnh mở rộng mạng lưới, đầu tư công nghệ để hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng sẽ tốn kém chi phí đầu tư hơn rất nhiều việc sáp nhập và đi thôn tính những ngân hàng nhỏ hơn đã có sẵn mạng lưới và đội ngũ nhân viên lành nghề. Lượng vốn góp theo tỷ lệ 30% của nhà đầu tư nước ngoài lúc đó sẽ quan trọng và có ý nghĩa hơn nhiều so với hiện nay.
Từ những phân tích trên, tôi cho rằng việc giữ tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại Việt Nam 30% như hiện nay và cho phép nhà đầu tư chiến lược nắm tới 20% số lượng cổ phiếu ngân hàng là thận trọng và thích hợp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, với chiến lược phát triển kinh tế từng bước của Chính phủ.
Tuy nhiên, sẽ là quá thận trọng nếu Chính phủ không những khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng thương mại mà còn giúp ngân hàng thương mại lựa chọn ai là nhà đầu tư nước ngoài của ngân hàng thương mại bằng những quy định quá mơ hồ và vô lý về tình trạng tài chính và vị thế quốc tế của nhà đầu tư nước ngoài, hay quy định đối tượng nào được phép là nhà đầu tư chiến lược, đối tượng nào được phép tìm nhà đầu tư chiến lược...
TBKTVN