Xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá DNNN
Một trong những nội dung lớn trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thời gian qua là để các DN ngày càng mạnh hơn, khắc phục được tình trạng nhiều về số lượng, nhưng qui mô nhỏ, vốn ít kỹ thuật lạc hậu.
Một trong những nội dung lớn trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thời gian qua là để các DN ngày càng mạnh hơn, khắc phục được tình trạng nhiều về số lượng, nhưng qui mô nhỏ, vốn ít kỹ thuật lạc hậu. Nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, an ninh quốc phòng, những lĩnh vực mà dân doanh chưa thể hoặc không thể làm được. Vấn đề cổ phần hoá DNNN là khâu quan trọng nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong việc nân cao hiệu quả DNNN, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, TBTCVN có cuộc trao đổi ông Hồ Xuân Hùng – Phó trưởng ban Ban đổi mới và phát triển DNNN.
PV: Từ khi Nghị định 64 CP ngày
Ông Hồ Xuân Hùng: Trước hết phải ghi nhận những ưu tiên lớn của Nghị định 64 khi thay Nghị định 44CP. Ngoài việc xác định rõ phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, việc mạnh dạn phân cấp, phân quyền quyết định giá trị DN cho các Bộ, tỉnh là hoàn toàn đúng đắn, tạo điều kiện chủ động và nâng cao tinh thần trách nhiệm cho các cơ quan quản lí trực tiếp đối với DNNN. Theo tôi, đây là động lực chính thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá vừa qua. Vì vậy, hơn 2 năm thực hiện NĐ64CP, cả nước đã cổ phần hoá được 1.385 DNNN.Trong khi từ 2001 - 2004 chỉ đạt 1.654 DN. Và nếu tính từ khi có chủ trương cổ phần hoá (1992) đến 31/12/2004 cũng chỉ đạt 2.242 DN. Như vậy, thực hiện NĐ64CP chỉ hơn 2 năm kết quả chiếm 62% của hơn 12 năm.
Cái chốt quyết định là chủ trương của Đảng đúng, theo đó là sự cụ thể hoá bằng chính sách của Chính phủ kịp thời phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn lịch sử. NĐ64CP của Chính phủ đã làm được điều đó trong hơn 2 năm qua.
PV: Vậy vì sao phải sửa đổi Nghị định 64?
Ông Hồ Xuân Hùng: Như Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX nhận định, quá trình cổ phần hoá vừa qua vẫn là khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Tính vốn điều lệ các DN đã cổ phần hoá (2242 DN) thì Nhà nước giữ lại 45,6%, cán bộ công nhân viên 39,3%. Cổ đông bên ngoài chỉ chiếm 15,1%. Nếu phân tích kĩ cơ cấu cổ đông bên ngoài thì tỉ lệ người nhà, thân quen của cán bộ công nhân viên trong DN cũng không nhỏ. Do đó, mục tiêu để thu hút vốn xã hội, tức kiếm cổ đông chiến lược là chưa đạt yêu cầu; yêu cầu của Nghị quyết TW3 là xác định giá trị DN theo hướng gắn với thị trường, nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN chưa được thể hiện rõ. Kết quả đạt được quá thấp, tạo nhiều kẽ hở dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình cổ phần hoá, gây hoài nghi trong cán bộ công nhân viên và nhân dân; tổ chức xác định giá trị DN thông qua hội đồng định giá là thiếu khách quan, thiếu tính thị trường. Phần lớn thành viên trong hội đồng định giá không có chuyên môn, trong khi việc xác định giá trị DN là vô cùng khó khăn, phức tạp. Vì vậy quá trình định giá vừa qua là vòng vèo, vừa không chính xác, vừa mất thời gian.
Bình quân, để cổ phần hoá 1 DNNN tính từ khi thành lập ban đổi mới tại DN đến khi đăng kí kinh doanh là 15 tháng, thì thời gian xác định giá tại DN thường chiếm từ 30 - 40%; phương pháp định giá chỉ quy định 2 phương pháp (giá trị tài sản và dòng tiền chiết kh u) và lại chỉ ra các đối tượng cụ thể áp dụng cho từng phương pháp. Muốn áp dụng phương pháp khác phải xin phép Bộ Tài chính, phiền hà cho tổ chức định giá và cũng tạo kẽ hở cho tiêu cực phát sinh; đối tượng áp dụng trong nghị định 64CP chưa bao hàm được đối tượng cổ phần hoá theo tinh thần Nghị quyết TW 9 khoá IX và quyết định 155TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhất là khi cổ phần hoá toàn Tổng công ti; các tổ chức tài chính định giá trung gian, các sàn giao dịch chứng khoán chưa được đề cập rõ trong nghị định, nhất là đối tượng khi cổ phần hoá bắt buộc phải qua các tổ chức này; yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hoá thông tin khi cổ phần hoá DN. Tuy đã có đề cập, song thiếu quy định bắt buộc, giám sát để thực hiện yêu cầu đó. Vì vậy, tình trạng không chỉ bên ngoài DN, mà ngay cả công nhân viên, người lao động tại DN cũng không nắm được đầy đủ. Vì vậy vừa thiếu thông tin vừa để bị kẻ có động cơ xấu lợi dụng gây áp lực bán “non” cổ phiếu, kể cả cổ phiếu ưu đãi; quy định và cơ chế cho nhà đầu tư chiến lược vừa không rõ, vừa thiếu và không có sức hấp dẫn.
PV: NĐ 187 CP ra đời đã có những chuyển biến mạnh mẽ, và phát huy tác dụng. Những chuyển biến đó thể hiện trên các mặt nào?
Ông Hồ Xuân Hùng: Trước hết, về nhận thức, chúng ta cần hiểu cổ phần hoá DNNN từ năm 2005 trở đi, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX của Đảng, có bước chuyển về chất, biểu hiện trên 3 mặt:
Thứ nhất, từ việc cổ phần hoá các DNNN trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá DNNN ở hầu hết các ngành các lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hoá. Trên thực tế và theo quy định của Chính phủ, chỉ còn lại có Tổng công ty Dầu khí và các DN đặc biệt trong an ninh quốc phòng. Riêng lĩnh vực dầu khí, đã cho phép liên doanh nước ngoài ở khâu khai thác và chế biến (bản chất cũng là đa sở hữu).
Thứ hai, từ cổ phần hoá các DN nhỏ là chính, sang cổ phần hoá các DN lớn như Điện lực, xi măng, hàng không, viễn thông... Không chỉ cổ phần hoá các DN, mà cổ phần hoá cả một số Tổng công ty.
Thứ ba, từ cổ phần hoá cơ bản là khép kín, nội bộ là chính sang cổ phần hoá theo hình thức đấu giá bán ra bên ngoài để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
PV: Việc xác định đúng giá trị DN được coi là khâu then chốt, vậy phương pháp xác định trong NĐ 187CP được dựa trên nguyên tắc nào? thưa ông!
Ông Hồ Xuân Hùng: Việc áp dụng NĐ64CP sẽ không đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới theo tinh thần NQTW9 và chỉ thị 45 của Bộ Chính trị.
Hơn nữa, cần thống nhất, hiểu rõ những ưu điểm nổi trội của NĐ187. Trên một số nét cơ bản sau:
+ Thực hiện đúng các quy định trong NĐ 187CP thì việc xác định giá trị DNNN chủ yếu là qua đấu giá về cơ bản là theo giá trị thị trường, do thị trường quyết định. Kết quả của các trung tâm, đơn vị định giá chỉ là mức giá để tham khảo khi xác định vốn điều lệ, giá để làm cơ sở cho chủ sở hữu đưa ra mức giá sàn chào. Trong đấu giá, những phân vân trong việc định giá như giá trị hữu hình, vô hình, thương hiệu, thương quyền, lợi thế đất đai... khi đấu giá sẽ khắc phục được.
+ Mục tiêu thu hút các nhà đầu tư chiến lược cũng sẽ được đáp ứng: Không chỉ đối với nhà cung cấp nguyên liệu, mà cả những nhà đại lí gắn bó lâu dài với DN, % ưu đãi cũng rất hấp dẫn và cụ thể, rõ ràng.
+ Đảm bảo chính sách cho người lao động, khuyến khích họ trở thành cổ đông của DN, đáp ứng mục tiêu lớn mang tính bản chất của Đảng ta, chế độ ta. Nhưng lại đảm bảo trên một sân chơi bình đẳng, lợi ích sòng phẳng.
+ Minh bạch hoá, công khai hoá; và vì vậy, đảm bảo dân chủ hoá, chống được thất thoát, tham nhũng, tiêu cực, móc ngoặc trong quá trình định giá.
Kết quả đấu giá cổ phiếu của công ty Bảo Minh, VINAMILK, Công ty cổ phần giống cây trồng thành phố Hồ Chí Minh, thuỷ điện sông Hinh.v.v là những thành công ban đầu cho ta thấy những ưu điểm của phương cách xác định giá trị DN theo NĐ 187CP.
PV: Qua mấy phiên đấu giá tại Trung GDCKHN, số lượng cổ phiếu của Nhà nước đưa ra giao dịch là rất lớn nhưng thời gian thực hiện lại rất ngắn, giá trị thu về so với giá trị ban đầu không cao; một bộ phận dân cư có tiền chưa có cơ hội tham gia giao dịch. Ông nghĩ gì về hiện tượng này?
Ông Hồ Xuân Hùng: Nghị định 187 CP mới có hiệu lực hơn 3 tháng. Một số DN khi cổ phần hoá đã triển khai thực hiện, song nhìn chung là đang trong giai đoạn xây dựng phương án, chưa sang giai đoạn đấu giá (bán) là bao nhiêu. Tuy vậy, qua công tác chỉ đạo và theo dõi dư luận, nổi lên mấy băn khoăn lớn sau đây:
+ Do nhiều năm bán cổ phiếu theo phương thức “chia” và với số lớn DN (2240 DN) đã tạo thói quen “chờ chia”, chưa tạo cách nghĩ “tìm mua”, “tìm bán”. Đặc biệt đối với người lao động ngay cả trong DN. Dân chúng tại nơi có DN và cả những người có tiền dư dật nhưng chưa phải là nhà đầu tư. Vì vậy, hiệu quả trong đấu giá khó cao.
+ Tâm lí hoài nghi vào tính hiệu quả của DNNN rất lớn, ám ảnh số đông dân chúng. Do đó, không tạo hấp dẫn khi tung cổ phiếu ra thị trường.
+ Không ít ý kiến lo lắng khi cổ phần hoá những DN lớn, hiệu quả cao thì cổ phiếu sẽ tập trung vào một số ít “đại gia”. Dân chúng khó có thể tham gia được (trừ người lao động tại DN được mua cổ phần ưu đãi).
+ Việc đấu giá DNNN mang tính đơn chiếc lại đang vướng những tâm lí nêu trên.
+ Nhiều cuộc đấu giá đã đưa ra một lượng lớn cổ phiếu (thậm chí rất lớn) có tạo ra tăng “cung” đột biến, trong khi cầu chưa xác định được. Và vì vậy không phản ảnh đúng giá trị doanh nghiệp. Đó cũng là điều cần rút kinh nghiệm cho các lần đấu giá sau.
PV: Về tác nghiệp, dư luận có gì băn khoăn?
Ông Hồ Xuân Hùng: Về Thông tư 126 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành NĐ187, các DN, Bộ, tỉnh, Tổng công ti băn khoăn nhiều đến việc phải thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hoá DNNN sẽ gây thêm phiền hà, rắc rối.
Nhiệm vụ cổ phần hoá DNNN trong năm 2005 và 2006 là rất nặng nề với gần 1.500 DN và các Tổng công ty Nhà nước, nhưng số lượng các nhà tư vấn theo danh sách Bộ Tài chính công bố còn ít, hơn nữa năng lực của họ, nhất là khi xây dựng phương án ở các Tổng công ty, doanh nghiệp lớn khi cổ phàn hoá. Vì vậy những doanh nghiệp có số lượng cổ phiếu bán ra ít, họ sợ phải xếp hàng chờ.
PV: Theo ông, cần có giải pháp gì khắc phục những băn khoăn nêu trên?
Ông Hồ Xuân Hùng: Phải khẳng định quyết tâm tổ chức thực hiện theo Nghị định 187/CP. Đẩy mạnh tuyên truyền giải thích cho quần chúng nhân dân, các nhà đầu tư về những chính sách mới của Đảng và Chính phủ để họ tích cực hưởng ứng. Các DN khi thực hiện cổ phần hoá phải công khai hoá rộng rãi, tạo điều kiện cho dân chúng tiếp nhận thông tin để tham gia đấu giá. Cũng cần suy nghĩ để có được cơ quan giám sát tổ chức đấu giá (báo hiệu bằng cách thức nào). Cuối cùng hãy tập trung thực hiện tốt NĐ 187/CP, trong quá trình đó cần theo dõi bổ sung và khắc phục những vấn đề bất hợp lý. Hiện nay mới hơn 3 tháng thực hiện cũng chưa có gì nhiều để nói.
TBTC