Xuất khẩu càng nhiều càng lo!
Xuất khẩu than đang tăng mạnh. Tình hình này gây ra sự lo ngại về khả năng cạn kiệt tài nguyên và Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than để cung cấp cho ngành điện, giống như đã xảy ra với ngành gỗ...
Xuất khẩu than đang tăng mạnh. Tình hình này gây ra sự lo ngại về khả năng cạn kiệt tài nguyên và Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than để cung cấp cho ngành điện, giống như đã xảy ra với ngành gỗ.Xuất khẩu ồ ạt, giá thấp
Bốn tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu than của Việt
Trong bản báo cáo định kỳ, cả Vụ Công nghiệp và Vụ Thương mại và Dịch vụ thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đều đề nghị Chính phủ chỉ đạo tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam không nên xuất khẩu ồ ạt than với giá quá thấp sang Trung Quốc. Vì điều này sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hữu hạn của Việt
Vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã cho xuất khẩu ồ ạt gỗ tròn và gỗ xẻ với số lượng đến gần một triệu mét khối, nhưng mỗi năm cũng chỉ thu về trên dưới 150 triệu Đôla Mỹ. Việc xuất khẩu đó đã khiến tài nguyên rừng Việt Nam nhanh chóng bị cạn kiệt và đến nay, khi nhu cầu của ngành chế biến gỗ xuất khẩu tăng, hàng năm Việt Nam phải chi ra khoản ngoại tệ nhiều gấp 4-5 lần số tiền thu được từ xuất khẩu gỗ trước đây để nhập nguyên liệu.
Tình trạng này đang có nguy cơ tái diễn với than khi xuất khẩu của ngành này liên tục phát triển nóng trong những năm gần đây. Năm 2003 Việt
Riêng bốn tháng đầu năm nay, tổng lượng than xuất khẩu đã đạt gần 8,7 triệu tấn. Điều đáng nói là sản lượng than xuất khẩu tăng mạnh nhưng giá xuất lại giảm, bình quân chỉ khoảng 32 Đôla Mỹ/tấn, thấp hơn năm Đôla Mỹ/tấn so với cùng kỳ năm 2005.
Sẽ phải nhập khẩu than
Những năm trước đây, do nhu cầu trong nước thấp, việc xuất khẩu là nhằm mở thêm thị trường tiêu thụ cho ngành than và tìm kiếm nguồn ngoại tệ phục vụ cho chương trình đầu tư hiện đại hóa hoạt động khai thác. Nhưng giờ đây nhu cầu tiêu thụ than trong nước đã tăng mạnh, với tổng lượng than sử dụng nội địa vào năm ngoái khoảng 15 triệu tấn, gấp 1,7 lần so với ba năm trước đó.
Khách hàng tiêu thụ than lớn nhất là ngành điện. Hiện nay, tổng công suất của các nhà máy nhiệt điện chạy than chỉ khoảng 1.500 MW và sản xuất ra 11% tổng sản lượng điện của cả nước. Tuy nhiên, do giới hạn của tiềm năng thủy điện và nguồn khí đốt trong nước không nhiều, vai trò của nhiệt điện chạy than sẽ ngày một tăng.
Theo quy hoạch phát triển của ngành điện, trong năm năm tới Việt
Trung bình, một nhà máy nhiệt điện chạy than có quy mô 300 MW, tương đương Nhà máy Điện Cẩm Phả đang được xây dựng, nếu sử dụng loại than nhiệt trị thấp, mỗi năm tiêu thụ tới một triệu tấn than. Với các nhà máy có tổng công suất 7.500-13.000 MW dự kiến được xây dựng, trong 10 năm tới ngành điện sẽ tiêu thụ khối lượng than khổng lồ.
Hiện nay, đến 60% sản lượng than của Việt
Chính vì thế, trước dự báo về nhu cầu than rất lớn của ngành điện, Chính phủ đã phải tính đến phương án nhập khẩu than, có nghĩa bài học về xuất khẩu gỗ nguyên liệu sẽ lại tái diễn.
Tiềm năng lớn, nhưng không dễ khai thác
Trữ lượng than của Việt
Trên lý thuyết, trữ lượng trên đủ cho nhu cầu của Việt
Quảng Ninh là nguồn cung cấp than chủ yếu hiện nay. Trong tổng trữ lượng 10,5 tỉ tấn đó, các vỉa than nằm ở độ sâu dưới 300 mét chỉ khoảng 3,5 tỉ tấn. Đây là phần dễ khai thác nhất. Nếu xuống sâu tới 1.000 mét thì trữ lượng than đạt bảy tỉ mét khối. Riêng tại đồng bằng sông Hồng, tuy chứa đựng nguồn than lớn nhưng mỏ than này lại nằm cách mặt đất từ 100 đến 3.500 mét.
Hơn nữa, mỏ than này lại nằm trong vùng đất nông nghiệp và dân cư, nên việc khai thác không dễ dàng và sẽ rất tốn kém. Đó là chưa kể việc khai thác còn gây ra những tác động xấu về môi trường và hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Có thể thấy, trữ lượng than của Việt
TBKTSG