Xuất khẩu đồ gỗ khó nhiều bề
Ngành gỗ đã đạt được kim ngạch xuất khẩu khả quan trong năm 2005, nhưng vấn tiếp tục phải tìm cách giải quyết những thách thức không nhỏ về nguyên liệu và nguồn nhân lực...
Ngành gỗ đã đạt được kim ngạch xuất khẩu khả quan trong năm 2005, nhưng vấn tiếp tục phải tìm cách giải quyết những thách thức không nhỏ về nguyên liệu và nguồn nhân lực.
Ông Nguyễn Tôn Quyền, Tổng thư ký Hiệp hội Lâm sản và Gỗ Việt
Mặc dù năm 2005 gặp rất nhiều khó khăn về nguồn nguyên liệu, nhưng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ vẫn cao hơn so với năm 2004. Ông nhận định ra sao?
Nhà nước chỉ cho khai thác 150.000 m3 gỗ rừng tự nhiên và 1,2 triệu m3 gỗ rừng trồng. Nhưng 1,2 triệu m3 gỗ rừng trồng đều chưa đủ đường kính và độ bền nên chỉ có thể dùng làm nguyên liệu dăm giấy và ván nhân tạo.
Vì thế, ngành gỗ phải nhập khẩu 600 triệu USD gỗ tròn, gỗ xẻ, ván nhân tạo, chủ yếu là gỗ tròn. Nguồn gỗ nhập khẩu từ nhiều quốc gia:
Do các nước có chính sách bảo hộ, nên năm 2005 chúng ta phải mua với giá cao hơn 20% so với năm 2004. Việc mua và bán cũng không dễ dàng, vì cả bên mua, bên bán đều phải có chứng chỉ rừng (FSC).
Khó khăn nhất là phía bán lại xuất khẩu theo lô hàng lớn, từ 5.000 m3 – 7.000 m3 trở lên. Các nước giàu như Nhật Bản, Trung Quốc, và Hồng Kông, Đài Loan có lợi, nhưng đối với Việt
Cho nên phải nhập khẩu nhỏ lẻ rồi gom dần hàng, tăng thêm chi phí gom, gửi đồ. Ở Việt
Đồ gỗ xuất khẩu đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật giỏi. Ở ta, ngoài số thợ học theo lối truyền nghề, còn có 5 trường đào tạo công nhân kỹ thuật ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Phủ Lý (Hà Nam), Qui Nhơn, Tây Nguyên và Thuận An (Bình Dương). Nhưng các trường này cũng chỉ đào tạo công nhân chế biến gỗ phổ thông, vì không có trường nào được trang thiết bị hiện đại về cưa, sấy, sơn gỗ.
Số kỹ sư kinh tế gỗ được đào tạo ở Xuân Mai (Hà Tây), Tây Nguyên, Thủ Đức còn ít. Chỉ có kỹ sư đào tạo ở Thủ Đức còn tiếp cận thường xuyên thị trường trong thời gian học, còn ở 2 trường kia phần lớn chỉ có lý thuyết nên ra trường vẫn phải học thêm, thực tập thêm.
Nhu cầu hiện nay là 120.000 công nhân kỹ thuật, nhưng thực tế mới có 20.000 người. Hai bộ Thương mại và Lao động - Thương binh và Xã hội đã quan tâm đào tạo, cấp thêm kinh phí chiêu sinh, nhưng qui mô mỗi trường quá nhỏ bé chỉ 100-200 công nhân mỗi năm.
Hiệp hội Lâm sản và Gỗ đã đề xuất giao chỉ tiêu đào tạo tại chỗ cho các doanh nghiệp. Dù đã được nhà nước hỗ trợ kinh phí, nhưng vẫn không đủ tiền, vì mới đạt 3 triệu đồng cho 1 công nhân được đào tạo, chỉ bằng một nửa yêu cầu.
Một số doanh nghiệp đã tự nguyện liên kết lại để có tiền ký hợp đồng mua gỗ trước 6 tháng, 1 năm. Nhiều doanh nghiệp đã phát triển thêm nhiều mặt hàng ngoài gỗ được thị trường chấp nhận. Nhờ thế, đồ gỗ Việt
Liệu chúng ta có giữ mãi được các thị trường đó không? Vì sao?
Các thị trường trọng điểm là Mỹ, EU và Nhật Bản. Riêng Mỹ, mỗi năm nhập khẩu 25 tỉ USD, trong lúc đồ gỗ Việt Nam vào Mỹ mới chưa đến nửa tỉ USD. Trong khi đó, Mỹ nhập khẩu mỗi năm đồ gỗ của Trung Quốc là 8 tỉ USD, của Đài Loan 3-4 tỉ USD, của Indonesia 2 tỉ USD...
Như vậy, có thể nói chúng ta không lo đối với thị trường Mỹ. Thị trường EU mỗi năm cũng nhập khẩu 85 tỉ USD đồ gỗ, và trong đó đồ gỗ Việt Nam cũng mới chỉ dưới nửa tỉ USD. Riêng thị trường Nhật Bản nổi tiếng khắt khe, kỹ tính, các nước “vào” ít, lại thích hợp với đồ gỗ Việt
Tuy nhiên, không thể xuất khẩu nóng vội vì nếu mặt hàng nào xuất khẩu vào Mỹ mà đạt tỉ trọng 3% đều bị Mỹ đánh thuế phá giá. Giải quyết như thế nào, chỉ có nhà nước mới có thể làm được.
Cho nên, năm 2005 xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đạt 1,741 tỉ USD, tăng 44,2% so với năm 2004, là thắng lợi lớn.
Như vậy, quan trọng nhất vẫn là phải làm thế nào để có thể đảm bảo được nguồn nguyên liệu. Nên giải quyết thế nào?
Về lâu dài, nên tổ chức đánh giá tình hình sản xuất và xuất khẩu gỗ, về mọi mặt: nguyên liệu, chất lượng, công nghệ, thị trường, xúc tiến thương mại... Từ đó mới có cách tháo gỡ các rào cản.
Theo tôi, làm sao đến năm 2010 phải có được 12 triệu m3 gỗ, trong đó có 6 triệu m3 gỗ nhỏ (làm dăm, giấy, ván), 6 triệu m3 gỗ lớn (làm đồ mộc và dùng trong xây dựng cơ bản), vẫn phải nhập khẩu 4 triệu m3. Nhu cầu gỗ của năm 2020 có thể là 10 triệu m3 gỗ nhỏ, 12 triệu m3 gỗ lớn.
Hiện nay, chưa có kế hoạch nào của nhà nước mang tính cụ thể, cũng chưa có cuộc bàn thảo nào sát với hoạt động xuất khẩu đồ gỗ.
Còn các mặt nào cần tháo gỡ?
Nhà nước nên có cơ chế cho các doanh nghiệp thuê kho cảng với giá ưu đãi. Tại 3 vùng miền Bắc,
Ngành gỗ hiện vẫn phân tán, vì thế nhà nước nên cơ cấu lại ngành gỗ. Theo đó, ngành dăm, ngành bột nên qui tụ gần cảng biển, còn ngành đồ gỗ lại nên đặt ở thành thị, như hiện nay đã có một số cụm ở Phú Tài (Qui Nhơn), Đồng Nai, Bình Dương, vừa sản xuất đồ gỗ thuận lợi, vừa tận dụng đến 90% bìa, bắp gỗ.
Mỗi năm ngành gỗ cần trên 1.000 tỉ đồng vốn, đến năm 2010, 2020 cần có 15.000-16.000 tỉ đồng. Nhà nước cho vay 20%, doanh nghiệp có 30% như vậy còn thiếu 50% vốn. Nếu có chính sách thu hút đầu tư thích hợp sẽ giải quyết được khó khăn này. Hiện nay sản xuất 100.000 tấn/năm, cần có 200.000 m3 nguyên liệu nên phải cần 6.000 ha rừng trồng. Ta mới lo cấp đất cho nhà máy, chưa nghiên cứu cấp đất cho trồng nguyên liệu.
Doanh nghiệp hẹp vốn, nên chỉ mua nhỏ giọt công nghệ, trang thiết bị theo công đoạn, nên chưa có điều kiện đầu tư chiều sâu cho công nghệ. Nhà nước nên có hỗ trợ tài chính tín dụng theo ân hạn hoặc dài hạn.
TBKTVN