"Chưa thấy thành viên nào của WTO xin ra cả!"
Trái với quan điểm của tác giả TS. Lê Nết trong bài: "Vào WTO, thế giới sẽ mua gì của chúng ta?", độc giả Giang Lê lại đặt câu hỏi: "Có gì đảm bảo nếu đứng ngoài WTO 10 năm nữa thì các DN vừa và nhỏ của VN sẽ đủ sức cạnh tranh với DN nước ngoài?"...
Trái với quan điểm của tác giả TS. Lê Nết trong bài: "Vào WTO, thế giới sẽ mua gì của chúng ta?", độc giả Giang Lê lại đặt câu hỏi: "Có gì đảm bảo nếu đứng ngoài WTO 10 năm nữa thì các DN vừa và nhỏ của VN sẽ đủ sức cạnh tranh với DN nước ngoài?". Độc giả Giang Lê chứng minh: "Chưa thấy có thành viên nào của WTO xin ra, bởi còn rất nhiều nước đang xếp hàng để được vào".
Núp sau bảo hộ - DN không thể thành "người lớn"!
Cách đây vài ngày khi đọc bài phỏng vấn nguyên trưởng đoàn đàm phán BTA Nguyễn Đình Lương tôi đã rất khâm phục vị quan chức có cái nhìn rất sáng suốt này. Tôi đã mừng cho đất nước có những người như ông Lương và thầm mong ông sẽ được giữ những trọng trách cao hơn để giúp dân giúp nước. Bởi vậy tôi không thể không phản hồi lại bài viết của TS. Lê Nết.
Bài của TS. Lê Nết có thể tóm tắt như sau: Việt
Kiến nghị của TS. Lê Nết là Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt
Trước hết, xin nhấn mạnh tôi hoàn toàn đồng ý là chúng ta cần tạo mọi điều kiện cho hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt
Thật ra đây không phải là ý kiến của tôi mà là ý kiến của nhiều nhà kinh tế rút ra từ những bài học thực tiễn của nhiều nước đang phát triển trong hơn 50 năm qua. Phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, nhiều nước đang phát triển mà điển hình là các nước châu Mỹ La tinh đã theo đuổi chính sách “import substitution” (tạm dịch là “thay thế nhập khẩu”) do hai nhà kinh tế Raul Presbish và Hans Singer đề xướng đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Chính sách này về căn bản cũng gần giống như ý tưởng của TS. Lê Nết, nghĩa là cần phải đóng cửa với thế giới bên ngoài để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện phát triển cho đến khi các doanh nghiệp đó đủ sức cạnh tranh với các công ty đa quốc gia.
Hai nhà kinh tế trên lập luận rằng những doanh nghiệp trong nước như là các đứa bé sơ sinh (infant industries) cần phải có thời gian được bố mẹ (government) bao bọc để có thể lớn mạnh trước khi mở cửa cho người ngoài vào.
Điểm khác biệt duy nhất trong ý kiến của TS. Lê Nết và hai nhà kinh tế nói trên là TS. Lê Nết muốn nhà nước bảo vệ (bằng cách chưa gia nhập WTO vội) và giúp đỡ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ưu đãi thuế) trong khi hai nhà kinh tế nói trên muốn bảo vệ các doanh nghiệp lớn.
Chính sách đóng cửa để bảo vệ “quân ta” này đã bị nhiều nhà kinh tế khác (như Anne Krugger, Helen Huges, Hans Andtz) chỉ trích mạnh mẽ. Họ vạch ra rằng nếu được bảo hộ các “infant indusrties” này sẽ không bao giờ lớn mà sẽ mãi mãi cần sự che trở và trợ giúp của nhà nước.
Anne Krugger (hiện là Phó giám đốc Quĩ Tiền tệ quốc tế - IMF) đưa ra một khái niệm rất nổi tiếng là “rent seeking” - sau này đã được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực ngoài kinh tế. Bà Krugger cho rằng khi được ưu đãi và bảo vệ, các doanh nghiệp trong nước sẽ không chịu cải cách để nâng cao tính cạnh tranh mà chỉ tìm cách xoay xở để giữ lại bổng lộc từ những ưu đãi và trợ giúp của nhà nước.
Do vậy, cho dù ý định ban đầu của chính sách bảo vệ các doanh nghiệp trong nước là tốt, kết quả đạt được sẽ hoàn toàn trái ngược.
Ai "ngán" gia nhập WTO nhất?
Thực tế phát triển kinh tế của châu Mỹ La tinh ở nửa sau của thế kỷ 20 đã chứng tỏ chính sách “đóng cửa” của Presbish và Singer hoàn toàn sai lầm. Những nước theo đuổi chính sách này (trong đó có
Trong khi đó, những con hổ châu Á mà điển hình là Hàn Quốc, Đài loan,
Sẽ có ý kiến cho rằng, “import substitution” là bảo vệ các doanh nghiệp lớn, còn TS. Lê Nết cho rằng cần bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về bản chất thì việc bảo vệ và ưu đãi đều có những hậu quả như nhau cho cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Có gì đảm bảo rằng nếu chúng ta đứng ngoài WTO 10 năm nữa thì các SME của Việt
Quan trọng hơn, bài viết đã bỏ quên một mảng lớn trong nền kinh tế Việt
Thứ nhất, nếu Việt
Hãy thử hỏi một trong các nhà sản xuất xe hơi hiện đang có nhà máy hoạt động ở Việt
Và đó chính là điều mà Anne Krugger đã cảnh báo.
Thứ hai, nếu Việt Nam không vào WTO và các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục làm ăn kém hiệu quả thì chính đây sẽ là một trở ngại cho sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. TS. Lê Nết khi đề cập đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã không chỉ ra những doanh nghiệp loại này sẽ hoạt động trong những lĩnh vực nào.
Thật ra điều này không khó, ai cũng có thể thấy rằng những doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung ở khu vực dịch vụ và công nghiệp nhẹ cung cấp một số chủng loại hàng tiêu dùng có giá trị gia tăng không cao và một số sản phẩm là đầu vào cho các ngành công nghiệp lớn. Khi những doanh nghiệp lớn tiếp tục trì trệ và ít chịu sức ép cạnh tranh từ bên ngoài thì những doanh nghiệp lớn đó chẳng cần lo nghĩ đến việc liên kết phát triển những nhà cung cấp đầu vào cho mình với giá rẻ.
Xin lấy một ví dụ điển hình ở Việt
Việt
Thế mạnh cạnh tranh của Việt
Thực ra, may mặc nói riêng và các loại hàng hóa tiêu dùng trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ nói chung (dày dép, xe đạp, bàn ghế) đã và đang là những thế mạnh của Việt
Có hai lý do Việt
Việc Canon đầu tư một nhà máy sản xuất máy in laser lớn nhất thế giới hay Intel quyết định đầu tư vào một nhà máy sản xuất chip ở Việt
Ngay cả ngành dệt may cũng vậy, kể cả khi Trung Quốc gần như chiếm ưu thế tuyệt đối, Việt
Thứ hai là sự đa dạng hàng hóa. Với các mặt hàng tiêu dùng thì không có nhãn hiệu nào giống nhãn hiệu nào và một nhà sản xuất năng động luôn có đưa ra những mẫu mã mới để tránh bị cạnh tranh từ những nhà sản xuất lớn hơn.
Trên thực tế các nhà sản xuất xe đạp của Việt
Với những khả năng như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ lách qua được “rừng” hàng tiêu dùng “Made in
"Còn nhiều nước xếp hàng chờ vào WTO"
TS. Lê Nết viết rằng “cần nâng cao được sức cạnh tranh trước khi hội nhập; chứ không phải hội nhập đi đã, rồi chờ sức cạnh tranh sẽ tự nâng cao”. Đúng là chúng ta lúc nào cũng cần phải nâng cao tính cạnh tranh chứ không phải đợi đến lúc vào WTO mới làm. Tuy nhiên nếu cứ núp sau sự bảo hộ thì liệu chúng ta có nâng cao được sức cạnh tranh hay không?
Câu trả lời của Anne Krugger như đã nói ở trên là không.
Thêm vào đó, những người cổ súy cho việc gia nhập WTO không bao giờ cho rằng cứ gia nhập đã rồi sẽ tăng sức cạnh tranh. Trái lại, lập luận căn bản của việc gia nhập WTO nói riêng hay cổ vũ cho mậu dịch tự do (free trade) nói chung là từ lý thuyết “lợi thế so sánh” (comparative advantage) ra đời cách đây gần 200 năm. Lý thuyết này cho rằng bất kỳ nước nào cũng có lợi thế (tương đối) riêng của mình nên sẽ có khả năng cạnh tranh đặc thù khi tham gia vào một hiệp định thương mại tự do. Nếu biết khai thác thế mạnh của mình, bất cứ nước nào cũng sẽ gia tăng tốc độ phát triển và có thể chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng có lợi nhất cho mình.
Đài Loan là một điển hình của việc vận dụng lý thuyết comparative advantage để phát triển. Trong những năm 50 của thế kỷ trước, Đài Loan có hoàn cảnh rất giống Việt
Thay cho lời kết - Cái giá của việc gia nhập WTO, ông Nguyễn Đình Lương nói: "Chưa có nước nào nói bị thiệt vì gia nhập WTO”. Có lẽ cần bổ xung thêm vào câu nói của ông Lương là bên cạnh đó, "còn rất nhiều nước đang xếp hàng để được vào".
Một thực tế khác cũng cần nhìn nhận là nhiều nước có điều kiện kinh tế xã hội (bao gồm cả khuôn khổ luật pháp) cũng chỉ bằng hay thậm chí còn kém Việt
Chưa thấy có thành viên nào của WTO xin ra cả!
VietNamNet