Đánh giá hoạt động thị trường chứng khoán năm 2004
I. Đặc điểm tình hình: Năm 2004 là năm thứ 5 thị trường chứng khoán (TTCK) có tổ chức của Việt Nam đi vào hoạt động với bối cảnh kinh tế- xã hội trong nước và thế giới tiếp tục có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức...
Năm 2004 là năm thứ 5 thị trường chứng khoán (TTCK) có tổ chức của Việt Nam đi vào hoạt động với bối cảnh kinh tế- xã hội trong nước và thế giới tiếp tục có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức.
Trong năm qua, Đảng và Chính phủ ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh huy động vốn đầu tư, cải cách doanh nghiệp để thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành T.W lần thứ 9, Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về thực hiện kế hoạch NSNN 2004 và 2005 khẳng định chủ trương và các giải pháp phát triển nhanh TTCK để huy động vốn cho đầu tư phát triển theo đó là các chính sách, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo tính chủ động hơn cho hoạt động của doanh nghiệp.
Chính phủ đã quyết định chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính nhằm thống nhất đầu mối quản lý Nhà nước về TTCK tạo thuận lợi để hoàn thiện khung pháp lý và chính sách khuyến khích tham gia thị trường, phát triển hàng hóa và mở rộng phạm vi thị trường giao dịch chứng khoán.
Mặc dù tỷ lệ lạm phát có tăng, song môi trường kinh tế vĩ mô của Việt
TTCK đã hoạt động được gần 5 năm, do đó hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ và đầu tư của các thành viên tham gia thị trường ngày càng tiến tới tính chuyên nghiệp hơn; đây có thể là một yếu tố thuận lợi góp phần cho thị trường có bước phát triển tốt hơn trong thời gian tới.
II. Đánh giá hoạt động TTCK năm 2004
1. Những kết quả đã đạt được
1.1. Thị trường tương đối ổn định và đã đạt được sự tăng trưởng nhất định về giao dịch và đầu tư chứng khoán niêm yết
- Qui mô thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết tiếp tục tăng lên: Giá trị chứng khoán niêm yết tăng thêm trong năm 2004 gần 12.500 tỷ đồng, tăng 93,4% so với giá trị chứng khoán niêm yết năm 2003, trong đó: niêm yết cổ phiếu tăng thêm gần 216 tỷ, chứng chỉ quỹ đầu tư 300 tỷ.
- Thị trường vẫn thu hút thêm được các nhà đầu tư tham gia: Tính đến cuối năm 2004, tổng số tài khoản của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán là 20.300 tài khoản, tăng 18% so với thời điểm cuối năm 2003. Điểm nổi bật là bên cạnh việc đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư nước ngoài chuyển mạnh sang giao dịch trái phiếu (chiếm 48% tổng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài).
- Giá cổ phiếu năm 2004 dần hồi phục sau giai đoạn suy giảm trong các năm 2002 và 2003, giao dịch cổ phiếu trên TTGDCK trong xu thế ổn định hơn, giá cổ phiếu hầu như không có biến động lớn. Chỉ số VN-Index ở mức 239,29 ngày
- Tính thanh khoản của thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết được nâng lên. Khối lượng giao dịch chứng khoán tăng mạnh trong năm 2004. Tổng giá trị giao dịch chứng khoán gần 20.000 tỷ đồng, bình quân 80 tỷ đồng/phiên, tăng 6,6 lần so với 2003, trong đó giá trị giao dịch cổ phiếu tăng gần 4 lần, trái phiếu tăng hơn 7 lần. Các nhà đầu tư có tổ chức đóng vai trò quan trọng đối với giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung. Tuy chỉ chiếm trên 1% số lượng nhà đầu tư nhưng các nhà đầu tư có tổ chức lại chiếm gần 39% tổng giá trị giao dịch chứng khoán trong năm 2004.
1.2. Các công ty niêm yết có tiến bộ rõ nét trong thực hiện công bố thông tin và quản trị doanh nghiệp theo thông lệ tốt nhất
- Các công ty niêm yết thực hiện ngày càng tốt hơn qui định công bố thông tin. Hầu hết các công ty niêm yết đã thực hiện công bố thông tin định kỳ đúng thời hạn; cố gắng và chủ động hơn trong việc công bố thông tin bất thường như : thông tin về đại hội cổ đông, thay đổi nhân sự, phát hành thêm cổ phiếu hoặc chi trả cổ tức.
- Việc thực hiện mẫu điều lệ theo thông lệ quản trị công ty tốt nhất đã được triển khai đồng bộ. Đến nay đã có 24/26 công ty niêm yết thông qua và thực hiện điều lệ mẫu. Điều này thể hiện cố gắng lớn của các công ty niêm yết trong điều kiện các doanh nghiệp Việt
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết khá tốt (17/26 công ty đạt lợi nhuận cao hơn năm 2003). Các công ty đã tăng cường huy động vốn qua TTCK, trong năm qua có 5 công ty phát hành thêm cổ phiếu để bổ sung vốn điều lệ, chi trả cổ tức với tổng số vốn là 45 tỷ đồng.
1.3. Các công ty chứng khoán mở rộng hoạt động nghiệp vụ, có kết quả kinh doanh và tiềm năng phát triển khả quan
- Về kết quả triển khai các hoạt động nghiệp vụ được cấp phép: Các công ty chứng khoán đã chủ động triển khai mạnh hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp: cung cấp dịch vụ định giá doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hoá, thực hiện đấu giá phát hành cổ phiếu qua công ty chứng khoán, tư vấn niêm yết và phát hành bổ sung tăng vốn qua TTCK. Trong năm qua, các công ty chứng khoán đã làm đại lý phát hành cổ phiếu cho gần 20 công ty và tư vấn cổ phần hoá cho gần 100 doanh nghiệp, tư vấn niêm yết mới và niêm yết bổ sung cho 10 doanh nghiệp, đây là đóng góp của các công ty chứng khoán trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN của nhà nước hiện nay.
Trong năm 2004 đã có 6/13 công ty chứng khoán triển khai nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư với tổng giá trị chứng khoán trong danh mục trên 240 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán đã thực hiện bảo lãnh phát hành với tổng giá trị là 9.034 tỷ đồng.
- Về kết quả kinh doanh: Hầu hết các công ty chứng khoán đều có lãi. So với năm 2003 doanh thu tự doanh tăng 8 lần (tự doanh trái phiếu chiếm 90% tổng giá trị tự doanh), doanh thu môi giới tăng 3 lần và doanh thu tư vấn tăng 1,6 lần.
- Về tiềm năng phát triển: Hiện nay các công ty chứng khoán bắt đầu xác định thế mạnh nghiệp vụ của từng công ty. Một số công ty đã thực hiện tăng vốn điều lệ (như Công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn, Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương). Việc Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới với ưu đãi lớn hơn đã khuyến khích các công ty mở rộng hoạt động và tạo tích lũy ngày càng cao cho các công ty chứng khoán.
- Trong năm 2004 đã có 2 công ty quản lý quỹ được UBCKNN cấp phép hoạt động; đây là một loại hình tổ chức tài chính trung gian mới đối với Việt Nam. Công ty quản lý quỹ Việt Nam (VFM) đã phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng để huy động vốn thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán với tổng giá trị 300 tỷ đồng. Chứng chỉ VF1 đã được niêm yết trên TTCK và công ty VFM đã thực hiện tốt công bố thông tin theo qui định, giúp người đầu tư có thông tin kịp thời để giao dịch chứng chỉ quỹ.
- Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã thành lập Hiệp hội để phối hợp hoạt động giữa các hội viên và thúc đẩy phát triển TTCK, bước đầu đã tham gia nghiệp vụ cho các nhân viên hành nghề.
1.4. Hệ thống các thành viên lưu ký chứng khoán và ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát phục vụ tốt cho thanh toán giao dịch chứng khoán và thực hiện các quyền của người nắm giữ chứng khoán
Đến nay đã có 18 thành viên lưu ký gồm 13 công ty chứng khoán, 2 ngân hàng thương mại trong nước, 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các thành viên lưu ký tiếp tục giúp người đầu tư thực hiện tốt thanh toán giao dịch chứng khoán và các quyền của mình.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Cùng với việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát đầu tiên là Ngân hàng Ngoại thương Việt
1.5. TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh vận hành hệ thống giao dịch thông suốt, cơ bản đáp ứng được yêu cầu giao dịch của thị trường
- Trong năm 2004, TTGDCK đã tổ chức được 250 phiên giao dịch chứng khoán. Trung tâm đã chủ động đề xuất và thực hiện nhiều giải pháp kỹ thuật để phục vụ hoạt động giao dịch như: thực hiện giao dịch trái phiếu hoàn toàn dưới hình thức thỏa thuận; chuẩn bị kỹ thuật cho giao dịch chứng chỉ quĩ; điều phối thiết bị để tăng khả năng nhập lệnh cho công ty chứng khoán.
- TTGDCK thực hiện tốt công bố thông tin của các công ty niêm yết, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo qui định. Hoạt động lưu ký, thanh toán giao dịch, thực hiện quyền của chủ sở hữu chứng khoán do TTGDCK đảm nhận đảm bảo kịp thời, chính xác. Đến cuối năm 2004, tỷ lệ lưu ký cổ phiếu niêm yết đạt trên 75,4% và trái phiếu đạt gần 99%, riêng trái phiếu Chính phủ đạt 100%. TTGDCK đã ký kết thỏa thuận với Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước thực hiện dịch vụ lưu ký các giấy tờ có giá được giao dịch trên cả thị trường tiền tệ và TTCK.
- Năm 2004 TTGDCK tổ chức được 37 đợt đấu thầu trái phiếu với tổng giá trị trúng thầu hơn 2.300 tỷ đồng. Bên cạnh các phương thức đấu thầu theo khối lượng, TTGDCK đã áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất theo coupon, bán trái phiếu cao hoặc thấp hơn mệnh giá. Phương thức này đạt kết quả tốt, mang tính cạnh tranh cao hơn.
1.6. Cơ quan quản lý Nhà nước đã tập trung hoàn thiện khung pháp lý và chính sách, mô hình tổ chức, giám sát hoạt động
- Về hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tạo tiền đề cho TTCK hoạt động và phát triển, Bộ Tài chính đã ban hành 9 văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 144 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các đối tượng tham gia TTCK; ban hành Quy chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận;
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy định mới về quản lý ngoại hối đối với giao dịch chứng khoán; Quy chế niêm yết trên TTCK của các ngân hàng thương mại, Qui định về công bố thông tin của ngân hàng cổ phần.
Về cơ bản, các cơ chế chính sách của Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan đã tạo ra sự đồng bộ về khung pháp lý cho TTCK.
- Về triển khai mô hình tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán: Trên cơ sở Chiến lược phát triển TTCK đã được Chính phủ quyết định, Bộ Tài chính đã phê duyệt định hướng phát triển TTCK Việt Nam, theo đó TGDCK TP.HCM sẽ được nâng cấp hệ thống giao dịch để phục vụ cho các chứng khoán niêm yết và trong tương lai sẽ trở thành Sở giao dịch chứng khoán hiện đại và có khả năng kết nối với TTCK khu vực; xây dựng TTGDCK Hà Nội phát triển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung, trước mắt thực hiện đấu giá cổ phần hoá và đang khẩn trương để khai trương hoạt động vào đầu 2005.
- Về công tác giám sát hoạt động TTCK đã được chú trọng nhằm đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch, tuân thủ pháp luật và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Trong năm qua, Chính phủ đã ban hành NĐ161 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán thay thế cho NĐ22 trước đây, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định này. Bên cạnh đó Bộ Tài chính đã ban hành tiêu chí đánh giá hoạt động tài chính đối với các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; UBCK đã ban hành quy trình về giám sát thị trường và giám sát các công ty chứng khoán. Những cơ chế này đã tạo điều kiện cho cơ quan quản lý Nhà nước, TTGDCK cũng như các công ty chứng khoán có căn cứ pháp lý để đánh giá và giám sát hoạt động thị trường.
UBCKNN thường xuyên đánh giá hoạt động của công ty chứng khoán, công ty niêm yết thông qua báo cáo định kỳ và xử lý các vấn đề thực tiễn phát sinh, qua đó đã kịp thời giúp các công ty chứng khoán, công ty niêm yết khắc phục thiếu sót và hoàn chỉnh quy trình nghiệp vụ.
2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
2.1 Hạn chế và tồn tại
Thứ nhất, chiến lược phát triển TTCK đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt song việc cụ thể hoá mô hình, bước đi còn chậm, đặc biệt là việc phối kết hợp giữa TTCK với các thị trường khác trong thị trường tài chính.
Hai là, công tác phát triển hàng hoá cho TTCK còn gặp nhiều khó khăn, tốc độ phát triển thị trường chưa đạt như mong muốn, chưa tạo ra bước đột phá để phát triển thị trường. Khuôn khổ thị trường nhỏ bé, giá chứng khoán vẫn còn biến động gây tâm lý dè dặt cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
Ba là, chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ trên TTCK chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế, thể hiện ở chất lượng công tác công bố thông tin, chất lượng hoạt động của TTGDCK cũng như các thành viên thị trường. Các biểu hiện vi phạm trên thị trường ở một số công ty chứng khoán cũng như công ty niêm yết đã ảnh hưởng đến lòng tin của công chúng đầu tư.
Bốn là, các giải pháp phát triển thị trường chưa đồng bộ, nhiều chính sách, chế độ như tham gia của bên nước ngoài, chính sách thuế đối với công ty niêm yết, chế độ kế toán đối với công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chưa được ban hành đồng bộ; chính sách quản lý ngoại hối mới đây do Ngân hàng Nhà nước ban hành vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định.
2.2 Nguyên nhân
Một là, môi trường vĩ mô vẫn chưa thực sự thuận lợi cho TTCK phát triển: tỷ lệ lãi suất cao, kể cả lợi tức trái phiếu Chính phủ đã không thúc đẩy hoạt động đầu tư vào cổ phiếu, sản phẩm có chứa yếu tố rủi ro cao. Bên cạnh đó, sự biến động của giá vàng, biến động trên thị trường bất động sản cũng là nhân tố không thuận lợi cho TTCK.
Hai là, tiến trình cổ phần hóa chậm, chủ yếu là cổ phần hóa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặt khác cách thức bán cổ phiếu theo NĐ64/NĐ-CP trước đây không tạo điều kiện cho công chúng đầu tư mua cổ phiếu lần đầu. Môi trường cạnh tranh giữa doanh nghiệp niêm yết và doanh nghiệp không niêm yết còn có sự phân biệt. Các doanh nghiệp còn e ngại kiểm toán, công bố thông tin.
Ba là, hiểu biết về TTCK của doanh nghiệp, xã hội nói chung còn hạn chế; công tác thông tin tuyên truyền về TTCK của UBCKNN và các thành viên thị trường đã được chú trọng nhưng chưa đủ đối với một thị trường còn mới như ở Việt Nam.
Bốn là, tính chủ động, hiệu quả trong công tác quản lý, giám sát hoạt động TTCK chưa cao. Chưa có một chương trình hành động thống nhất để phát huy vai trò và khả năng của các thành viên thị trường trong nỗ lực chung để phát triển TTCK, đặc biệt là vai trò phối kết hợp của các Bộ, ngành, địa phương với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK còn hạn chế
Năm là, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ quản lý cũng như nhân viên hành nghề còn có hạn chế nhất định; chưa xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của tổ chức và người kinh doanh chứng khoán.
UBCKNN