Tin tức
Nguyên nhân chủ yếu gây lỗ và một số biện pháp khắc phục cuả BTC

Nguyên nhân chủ yếu gây lỗ và một số biện pháp khắc phục cuả BTC

16/04/2005

Banner PHS

Nguyên nhân chủ yếu gây lỗ và một số biện pháp khắc phục cuả BTC

Ngày 11/04/2005, Công ty Cổ phần Cơ khí và Xây dựng Bình Triệu (BTC) đã gửi công văn giải trình nguyên nhân chủ yếu gây lỗ và đưa ra một số biện pháp khắc phục như sau:

 

1 – Tên tổ chức niêm yết: CÔNG TY CỔ PHẦN CƠ KHÍ VÀ XÂY DỰNG BÌNH TRIỆU

2 – Tên giao dịch: CÔNG TY CỔ PHẦN CƠ KHÍ VÀ XÂY DỰNG BÌNH TRIỆU

3 – Mã chứng khoán niêm yết: BTC

4 – Nội dung:

 

                        Nguyên nhân chủ yếu gây lỗ và một số biện pháp khắc phục.

                        Lí do:

 

TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH NĂM 2004

Tình hình công ty năm 2004 – Một số nguyên nhân gây lỗ:

 

Đặc điểm tình hình chủ yếu hiện nay là công ty tiếp tục thua lỗ. Lỗ năm 2003 là : 1.874.732.072 đồng. Thực tế các chi phí sản xuất tồn đọng từ các năm trước dồn lỗ tiếp tục vào năm 2004 và chuyển lỗ sang năm 2005.

Khi bàn giao tài chính giữa hai Tổng giám đốc cũ và mới, kết thúc 06 tháng đầu năm 2004 có số lỗ lũy kế là 4.496.937.298 đồng.

Thanh tra tài chính tháng 08/2004 bổ sung chi phí khấu hao năm 2003 chưa đủ, làm tăng lỗ thêm : 312.210.316 đồng.

 

Các chi phí có trước ngày 01/07/2004 nhưng sau 01/07/2004 mới được hoàn (Trong khi doanh thu đã phản ánh vào báo cáo tài chính 06 tháng đầu năm 2004 về trước) với giá trị lỗ chưa được phản ánh là : 1.211.152.948 đồng.

Trong số dư tạm ứng 2.975.605.588 đồng có đến 01/07/2004 đã xác định được 1.494.867.773 đồng là chi phí của các công trình về trước 01/07/2004 (Đã phản ánh doanh thu) nhưng chưa hoàn ứng. Tiếp tục cho hoàn ứng chuyển lỗ vào năm 2004, năm 2005.

 

Thặng dư bán cổ phiếu còn lại 603.283.782 đồng, trước đây đưa vào lợi nhuận để giảm lỗ 06 tháng đầu năm 2004. Nay kiểm toán tách ra nhập vào vốn, lỗ bổ sung thêm vào năm 2004 là : 603.283.782 đồng.

Như vậy, ước tính lỗ khoảng 8.118.452.067 đồng.

Theo báo cáo tài chính, lỗ lũy kế đến 31/12/2004 là : 6.889.735.461 đồng. Vậy, ước tính lỗ còn lại khoảng 1.228.716.606 đồng sẽ chuyển vào năm 2005 và các năm về sau.

Ngoài ra, các yếu tố khác làm lỗ và tạo ra cho nền tài chính không lành mạnh:

Khi bàn giao tài chính giữa hai Tổng giám đốc tồn đọng một số vấn đề :

Nợ phải trả                                            :14.942.454.275 đồng.

Nợ phải thu                                           :6.316.777.512 đồng.

Sản phẩm dở dang                                :9.333.691.500 đồng.

Tạm ứng chi phí chưa hoàn                    :2.975.605.588 đồng.

 

Trong khi đó kết quả sản xuất kinh doanh tùy thuộc vào khả năng thanh toán các khoản nợ phải thu, nợ phải trả và sản phẩm dở dang.

Nợ vay ngắn hạn quá lớn : Ngày 31/12/2003 nợ vay ngắn hạn là 12.238.444.990 đồng đến ngày 31/12/2004 nợ vay ngắn hạn còn 452.261.146 đồng, lãi vay Ngân hàng hàng tháng trong những tháng đầu năm 2004 là hơn một trăm triệu đồng.

Khách hàng chiếm dụng vốn lớn và kéo dài, nhất là các công trình có vốn ngân sách, trong khi công ty vay vốn Ngân hàng chịu lãi suất để làm. Mặc dầu đòi nợ rất quyết liệt, trong năm qua ta chỉ thu được khoảng 30% giá trị nợ nần. Trái lại, nợ phải trả cho khách hàng trước đây đến nay còn trả tiếp trên 02 tỷ đồng.

Vốn ứng trước của khách hàng cho các công trình lớn ngay từ đầu năm ta đã trả nợ hết cho Ngân hàng, công trình Tân Hóa – Lò Gốm 5 tỷ, công trình Cái Hóp 400 triệu, …v…v… đến khi bước vào thi công không có vốn để làm.

 

Do tình hình tài chính khó khăn, công ty lại không còn vốn lưu động, không có tài sản thế chấp; hơn một năm qua (Từ tháng 02/2004 đến nay) tất cả các Ngân hàng đều không cho ta vay vốn sản xuất, không thực hiện các bảo lãnh bằng tín chấp.

Giá đấu thầu phải giảm để cạnh tranh trong khi giá vật tư, sắt thép, xăng dầu, thiết bị điện, điện nước, thuế đất, bảo hiểm, …v…v… đều tăng. Giá thầu không điều chỉnh, giá sắt thép không kịp bù, với tình hình giá đất mới và lương mới chi phí sản xuất còn tiếp tục tăng cao.

 

Tất cả các công trình lớn, trọng điểm đều dồn tiến độ, khối lượng thi công vào Quý 4/2004 và Quý 1/2005. Điều đó làm cho nền tài chính đã khó khăn lại trầm trọng thêm lên.

Đấu thầu công việc mới vô cùng khó khăn, vì :

Lỗ liên tiếp hai năm.

Không có vốn bảo đảm, chưa có Ngân hàng bảo lãnh, không có tài sản thế chấp, …v…v…

 

Tài chính không lành mạnh.

Thiếu kỹ sư giỏi và công nhân có tay nghề khá trong khi tổ chức sản xuất còn cồng kềnh, đội ngũ gián tiếp giảm ít, các chi phí quản lý, khấu hao còn rất năng nề.

Muốn phát triển công ty phải đầu tư thiết bị công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng :

 

Theo quy hoạch, công ty phải di dời từ nay đến năm 2010.

Không có vốn để đầu tư, chưa ai dám đầu tư vốn.

Thuận lợi nhất trong năm 2004 là : Công ty đã có việc để làm, đại đa số cán bộ CNV có tinh thần đoàn kết và lòng quyết tâm xây dựng công ty.

Theo báo cáo tài chính, năm 2004 lỗ : 5.015.003.389 đồng, số lỗ này chủ yếu là chi phí của các công trình thuộc các năm trước dồn lại.

 

Một số nguyên nhân của tài chính yếu kém và thua lỗ :

Do nhiệm vụ kế hoạch và công ăn việc làm, chúng ta đã nhận một số ít công trình không có lãi, thậm chí lỗ ít cũng làm. Một số công trình phát sinh lỗ trong khi làm hoặc sau khi làm xong nhưng chưa quyết toán dứt điểm. Rơ moóc Irắc lỗ trên đưới 2 tỷ, công trình Hansea (Củ Chi) lỗ xấp xỉ 500 triệu, …v…v… Cuối năm 2003, nhận công trình Cái Hóp xong, ta đã xác định : nếu được bù giá thép vẫn bị lỗ hơn 300 triệu. Công trình Tân Hoá – Lò Gốm khi ký hợp đồng xác định là lời, nhưng khi triển khai, một số hạng mục bị lỗ, riêng phần điện bị lỗ hơn một tỷ đồng.

 

Lỗ do trả lãi vay vốn Ngân hàng để làm, trong khi khách hàng chiếm dụng vốn thanh toán rất lớn và kéo dài. Trong các năm 2002, 2003, 6 tháng đầu năm 2004 mỗi tháng trả lãi Ngân hàng hơn cả trăm triệu đồng.

Đấu thầu cạnh tranh giá thấp trong khi chi phí ngày càng tăng : vật tư, sắt thép, điện nước, xăng dầu, …v…v… thuế đất, bảo hiểm đã tăng còn tiếp tục tăng. Khấu hao tài sản cố định vẫn theo bài toán từ xưa, trong khi nhiều tài sản đã khấu hao hết, hoặc cả năm không làm gì.

 

Các cơ sở sản xuất của ta mang tính ỷ lại, thiếu năng động. Ngành nghề kinh doanh vẫn còn đơn độc, khi gặp khó khăn không chuyển đổi kịp, nay muốn đầu tư mở rộng thì thiếu vốn, sản xuất thu hẹp, các chi phí quản lý giảm ít, các chi phí cố định tăng cao.

Một số thiết bị mua sắm trước đây không phát huy được tác dụng : cẩu quay cố định, máy phay bánh răng côn xoắn, …v…v… vừa lãng phí vốn mua, vừa phải tính khấu hao hàng năm làm tăng chi phí sản xuất.

 

Trong các năm qua, công ty ta để xảy ra một số sai sót trong các khâu quản lý, điều hành; tuy không lớn nhưng dẫn đến lãng phí, làm tăng chi phí sản xuất. Ví dụ :

Chưa lường hết được các yếu tố trong đấu thầu, bỏ giá một số công trình : thiếu bu lông công trình Hansea, thiếu dây cáp điện ngầm trong Tân Hóa – Lò Gốm, …v…v…

Hiện tượng làm thiếu, làm thừa; làm sai, làm hỏng một số chi tiết gia công của một số công trình do triển khai bản vẽ, chọn mua vật tư hoặc do tổ chức sản xuất, …v…v… xảy ra một số công trình : chọn sai thép Inox làm khung cửa Ba Lai, các chi tiết làm đi làm lại ở Phú Mỹ 2-1, xi măng Thị Vải, …v…v…

 

Thanh toán nợ phải thu, nợ phải trả không dứt điểm; công nợ còn để dây dưa kéo dài. Một số cá nhân, tập thể và khách hàng chiếm dụng vốn quá lâu : công ty xây dựng thủy lợi 25, công ty TNHH Hưng Thịnh, ông Hoàng Văn Cường, …v…v… Điều đó làm tăng chi phí sản xuất, đồng thời treo chí phí qua nhiều năm; vì vậy việc xác định lãi, lỗ hàng năm thiếu chính xác, lỗ dồn vào các năm cuối như hiện nay.

 

CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ SẢN XUẤT KINH DOANH NĂM 2005

 

Muốn cải thiện tình hình làm ăn đi xuống, tài chính yếu kém và thua lỗ, cần có nhiều biện pháp đồng bộ vừa mang tính lâu dài, vừa phải có tính đột phá.

Tập trung các biện pháp khắc phục, ổn định sản xuất kinh doanh, giảm lỗ, tiến tới không lỗ và có lãi.

Đó là những biện pháp đã làm, đang làm trong năm 2004 bước đầu đã có kết quả.

Ưu tiên tìm công trình nhỏ và vừa có ứng vốn và có vốn thanh toán, thu hồi nợ nhanh và có lãi.

Tập trung mọi nguồn lực, tranh thủ các nguồn thu để hoàn thành các công trình đang làm theo hợp đồng đã ký với chủ đầu tư đúng tiến độ, chất lượng : Tân Hóa – Lò Gốm, Cái Hóp, Buôn Joong, …v…v…

Tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng công ty xây dựng 4

Nhận các công việc của Tổng công ty.

 

Tổng công ty bảo lãnh đấu thầu các công trình khi ta chưa có điều kiện.

Tăng cường liên kết liên doanh với các đơn vị trong ngành và ngoài ngành, hỗ trợ lẫn nhau trong đấu thầu chia việc, kể cả hỗ trợ vay vốn, ứng vốn cho thi công.

Huy động vay mượn mọi nguồn vốn của cá nhân và tập thể trong và ngoài công ty, ưu tiên cho việc giao khoán gọn để họ bỏ vốn ra làm.

Tận dụng cho thuê mặt bằng, liên kết mở rộng các ngành nghề để tăng nguồn thu.

Thực hiện cơ chế giao khoán triệt để và chặt chẽ hơn; khoán hạng mục, khoán loại chi phí, tiến tới khoán gọn hạng mục, khoán gọn chi phí cho cá nhân và tập thể đứng ra làm.

Quyết liệt thu hồi nợ cũ, thực hiện một số chính sách uyển chuyển khi thu nợ.

Triển khai ngay việc củng cố tổ chức sản xuất, tinh giảm bộ máy để nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả quản lý, giảm chi phí sản xuất.

 

Tăng cường các biện pháp quản lý, hạch toán và quyết toán tài chính. Thực hiện chặt chẽ hơn việc tạm ứng và hoàn ứng; thu và chi; giao khoán và quyết toán công trình. Thanh toán tích cực các khoản nợ phải thu, nợ phải trả, xác định sản phẩm dở dang thông qua đánh giá của kế hoạch và phân bổ chi phí bỏ ra làm của tài vụ. Việc phân chia lợi nhuận hàng năm (Nếu có) phải tính yếu tố dự phòng.

Từng bước đầu tư và tăng tỷ trọng sản lượng xây dựng, thương mại dịch vụ trong sản xuất kinh doanh. Đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, bảo đảm chuyển đổi kịp thời khi có sự thay đổi.

 

Giải pháp lâu dài và phát triển :

Chuyển đổi công năng lấy vốn theo chủ trương di dời của Thành phố, giải pháp mang tính đột biến và lâu dài.

Di dời xây dựng cơ sở mới tranh thủ trang thiết bị công nghệ theo hướng hiện đại hóa.

Đầu tư phát triển ngành nghề theo sự chọn lựa mới.

Xây dựng văn phòng mới tại Bình Triệu, vừa là trung tâm điều hành quản lý, vừa thực hiện các dịch vụ kinh doanh.

Trả nợ và bù lỗ.

Tạo việc làm mới, đổi thay bộ mặt công ty.

Trong năm 2005 tập trung nỗ lực giải quyết cơ bản chuyển đổi công năng, đó là công việc cấp thiết và lâu dài, cần sự đóng góp chung của tất cả CBCNV, của tất cả những người góp vốn cổ phần.

 

Nhiệm vụ kế hoạch năm 2005 :

 

Dự kiến kế hoạch thực hiện năm 2005 là 45 tỷ đồng, doanh thu 32 tỷ.

Công việc đã có khoảng 30 tỷ, trong đó phần cơ khí cân đối được 10 tỷ, sản lượng còn lại tiếp tục tìm kiếm, tập trung tìm việc cơ khí trong và ngoài ngành (Cống Nàng Âm – Trà Vinh) 2 tỷ; tiểu dự án Quản Lộ Phụng Hiệp gồm 14 cống dưới đê Phú Hữu – Mỹ Thanh hơn 1 tỷ; hệ thống đường ống Nhà máy sữa Sài Gòn; các khung nhà thép BHP; mở rộng nhà máy điện Phả Lại (Quảng Ninh); …v…v…

 

Năm 2005 kế hoạch xây dựng lợi nhuận sau thuế là 1 tỷ, nhưng lỗ của các năm trước bổ sung khi hoàn chứng từ trên dưới 1 tỷ. Cho nên việc phấn đấu giảm chi phí là nỗ lực lớn của toàn thể CBCNV để tăng lãi, bù lỗ.

Thu nhập cán bộ CNV phấn đấu đạt 1.600.000 đồng/ người/ tháng.

Hoàn thành các công trình trọng điểm trong năm 2003 : Tân Hóa – Lò Gốm, Bảo Định, Cái Hóp, Buôn Joong.

Triển khai gấp rút chuyển đổi công năng, xây dựng xưởng mới, văn phòng công ty mới. Đó là một sản lượng lớn, một công trình lớn có thể kéo dài một vài năm.

Với sự nỗ lực của toàn thể CBCNV, sự ủng hộ tích cực của cổ đông, quyết tâm vượt qua thử thách, duy trì sự ổn định và phát triển công ty, tiến tới kỷ niệm 25 năm thành lập với truyền thống đổi mới và đi lên không ngừng.

Chúng tôi cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung công bố thông tin này.

TTGDCK TPHCM

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng