TS. Đậu Anh Tuấn: Để đầu tư dài hạn, các nước không dựa vào hệ thống ngân hàng mà huy động vốn từ trái phiếu, chứng khoán
Tại tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68" sáng ngày 27/06, TS. Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết Nghị quyết 68 có rất nhiều điểm nổi bật và có tác động quan trọng, đột phá đối với các doanh nghiệp tư nhân.
![]() TS. Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Ảnh: VGP
|
Sự khác biệt giữa Nghị quyết 68 đó là sự toàn diện, cụ thể. Nghị quyết 198 của Quốc hội có nhiều chính sách được chuyển từ Nghị quyết 68 sang, vì vậy tính cụ thể, thực tiễn của Nghị quyết 68 là điểm rất mạnh. Sau này, chỉ cần chuyển nội dung của Nghị quyết 68 sang, chính vì thế mà tính thực tiễn của nghị quyết rất cao.
Trong Nghị quyết 68 có nhóm giải pháp được các doanh nghiệp trông chờ và đánh giá cao liên quan đến tiếp cận tín dụng, vốn. Bởi vì đây là một trong những khó khăn hàng đầu của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. VCCI trong vòng 20 năm qua khi tiến hành các khảo sát, có hỏi doanh nghiệp rằng điều gì là khó khăn nhất, thì việc khó tiếp cận vốn luôn là khó khăn hàng đầu cùng với những vấn đề về thủ tục hành chính, đất đai. Điều này thể hiện tầm quan trọng của những chính sách về tín dụng, vốn đối với doanh nghiệp.
Ông Tuấn đánh giá rất cao vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, vai trò của tín dụng giống như xăng đối với xe chạy xăng. Nếu không có xăng thì xe không chạy được. Nhiều người ví vốn giống như mạch máu kinh tế nhưng tôi thì cho rằng vốn giống như xăng đối với xe chạy xăng vì liên quan đến giá. Nếu giá xăng quá cao thì rõ ràng vận hành xe sẽ không kinh tế, khả thi. Một xe chạy xăng không đổ đầy bình xăng, điều đó có nghĩa anh không đủ vốn thì anh không thể đi được xa. Vì vậy, các chính sách cung ứng vốn cho nền kinh tế rất quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Với doanh nghiệp về lĩnh vực phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhiều doanh nghiệp nói rằng thực ra không phải doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng, trình độ công nghệ để phát triển công nghiệp hỗ trợ, mà bởi vì điểm bất lợi là vốn. Các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc),... có thể tiếp cận những nguồn vốn chi phí thấp, rẻ, dài hạn, có thể lãi suất chỉ 2-3%/năm. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp Việt Nam vay vốn ngân hàng với lãi suất cao và đầu tư dài hạn thì về mặt bài toán kinh tế không khả thi, hiệu quả. Chi phí vốn quyết định chi phí kinh doanh, hiệu quả đầu tư rất lớn. Với tầm quan trọng như thế, chúng tôi đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thời gian qua. Mặc dù đối mặt nhiều khó khăn nhưng một trong những ưu tiên hàng đầu là cố gắng bình ổn lãi suất. Trong năm 2024, 2025, Chính phủ và NHNN đã tìm nhiều giải pháp để bình ổn, giảm lãi suất. Đây là thành công lớn.
Thứ hai, tháo gỡ những khó khăn về quy định pháp luật. Luật Tổ chức tín dụng vừa sửa đổi năm trước nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong giải quyết nợ xấu. Cho nên, Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội ban hành Luật Tổ chức tín dụng (sửa đổi) trong kỳ họp này. Theo quy trình xây dựng văn bản pháp luật thông thường vừa ban hành, phải đợi một thời gian dài, thậm chí vài năm, nhưng hiện nay không ngại, vẫn tiếp tục sửa, đây là nỗ lực lớn của Chính phủ. Chính phủ và NHNN đã nắm được vấn đề, tập trung vào các điểm quan trọng của nền kinh tế, từ đó cố gắng duy trì, cung cấp tín dụng cho nền kinh tế trong nỗ lực tốt nhất.
Nhưng những nỗ lực này ở Việt Nam rất khó khăn bởi vì hiện nay, vốn cho phát triển kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, đang phụ thuộc rất nhiều vào ngân hàng. Để đầu tư dài hạn, các nước không dựa vào hệ thống ngân hàng, mà huy động vốn từ trái phiếu, thị trường chứng khoán. Nhưng những mảng thị trường này chưa phát triển đúng với kỳ vọng và nhu cầu của nền kinh tế. Chính vì thế, hiện nay, trụ cột từ vốn tín dụng, NHTM quá lớn. Một nền kinh tế đang phát triển nhanh nhưng trụ cột chống đỡ hiện nay đang bị dồn quá nhiều vào NHTM. Sự phát triển về hệ thống tiền tệ, NHTM phải đáp ứng nhiều yêu cầu khác nữa. Chẳng hạn như, ổn định kinh tế vĩ mô, đây là mục tiêu rất quan trọng. Vì thế nên rất cân nhắc, điều tiết, đây là bài toán khó, thách thức.
Hàn Đông