Xác định các ngành hàng ưu tiên phát triển
Trong khuôn khổ dự án "Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu ở Việt Nam" (VIE/61/94), các chuyên gia thuộc Trung tâm thương mại thế giới UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Thương mại đã phối hợp soạn thảo tài liệu "Định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010" dưới sự tài trợ của Chính phủ Thuỵ Sỹ và Thuỵ Điển...
Trong khuôn khổ dự án "Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu ở Việt Nam" (VIE/61/94), các chuyên gia thuộc Trung tâm thương mại thế giới UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Thương mại đã phối hợp soạn thảo tài liệu "Định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010" dưới sự tài trợ của Chính phủ Thuỵ Sỹ và Thuỵ Điển.
Các chuyên gia nhận định, trong giai đoạn 2001 - 2005, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao và thực sự đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Ước tính chung 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 109,1 tỷ USD, tăng trưởng bình quân đạt 16,2 %/năm. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 đạt gần 370 USD/người.
Nhóm hàng tăng trưởng, thị trường mở rộng
Nhìn chung, các nhóm hàng đều có tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, chiếm ưu thế trong tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.
Tính bình quân 5 năm (2001 - 2005), nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 20,8 %/năm, chiếm tỷ trọng 40,2%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 12,7 %/năm và chiếm tỷ trọng 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; nhóm hàng nông - lâm - thuỷ sản tăng 14,6 %/năm, chiếm tỷ trọng 27%.
Việt
Tính từ đầu năm 2001 đến hết năm 2004, Việt Nam đã phát triển thêm được hơn 20 thị trường mới, ký kết thêm hơn 10 hiệp định song phương về thương mại, hợp tác kinh tế - thương mại và kỹ thuật, đưa tổng số hiệp định thương mại song phương mà Việt Nam đã ký kết lên 87 hiệp định.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt
Tuy nhập siêu hàng hoá ở mức khá cao nhưng về cơ bản đã thực hiện đúng theo chủ trương nhập khẩu đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng nhu cầu cần thiết của tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu.
Theo các chuyên gia của ITC tham gia soạn thảo tài liệu "Định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia của Việt Nam", tình trạng nhập siêu gia tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là nhóm hàng nguyên - nhiên - vật liệu (chiếm tỷ trọng 61,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu); máy móc, thiết bị phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản và mở rộng năng lực sản xuất (chiếm 31,5% tổng kim ngạch) phục vụ xuất khẩu tăng nhanh với tốc độ bình quân hàng năm tương ứng là 17,9 %/năm và 19,6 %/năm.
Hơn nữa, giá cả nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ chốt trên thị trường thế giới tăng cao do giá dầu thô tăng mạnh. Đồng thời, một số đồng tiền mạnh như Euro, Yên Nhật đã tăng giá khá mạnh so với đồng USD làm cho chi phí nhập khẩu tính theo USD tăng lên.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua sắm hàng hoá nhập khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng tăng mạnh.
Năm nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
Cũng theo đánh giá của các chuyên gia, mặc dù hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt
Thứ nhất, quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu năm 2004, Việt
Tương tự như vậy, nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 của Việt Nam với Thái Lan và Philippines thì tỷ lệ này còn thấp hơn với mức tương ứng là 1/4 và 2/3.
Thứ hai, nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch cao không nhiều, lại tập trung chủ yếu ở những loại hàng khoáng sản thô (dầu thô) hoặc hàng gia công công nghiệp có giá trị gia tăng không cao (như dệt may, giày dép, hàng điện tử) và hàng nông - thuỷ sản ít có khả năng mở rộng quy mô trong tương lai (như thuỷ sản, gạo).
Trong khi đó, các nhóm hàng khác chưa thấy có dấu hiệu và khả năng bứt phá rõ rệt trong thời gian tới. Đây chính là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong công tác phát triển xuất khẩu mà Việt
Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu của Việt
Một phần là do cơ cấu hàng hoá xuất khẩu phần nhiều là những mặt hàng nhạy cảm với biến động về giá (như nông sản, khoáng sản) và một phần khác là do năng lực phân tích, dự báo và kiểm soát diễn biến thị trường còn yếu.
Thứ tư, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý dẫn đến việc hạn chế hiệu quả xuất khẩu, đặc biệt là xét trên khía cạnh phần giá trị gia tăng thực thu còn thấp.
Nhóm hàng nguyên liệu, khoáng sản, hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, hàng chế biến chủ yếu vẫn là hàng gia công như dệt may, giày dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính; trong khi đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu lại diễn ra chậm và chưa có những giải pháp lâu dài.
Thứ năm, hiệu quả của công tác khai thác, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu còn thấp. Hầu hết các chương trình xúc tiến, tìm kiếm, mở rộng thị trường vẫn chưa có những chương trình thực sự mang ý nghĩa và tầm cỡ quốc gia.
Tập trung vào hai nhóm nội dung trọng tâm
Vì vậy, các chuyên gia của ITC đề xuất, trong thời kỳ 2006 - 2010, định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia của Việt Nam nên tập trung xử lý 2 nhóm nội dung trọng tâm bao gồm thứ tự ưu tiên các ngành hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và xử lý các vấn đề có tính liên ngành trên cơ sở đánh giá các yếu tố của 4 vấn đề: trong nước, ngoài nước, các vấn đề tại biên giới và các vấn đề về phát triển toàn diện.
Tầm nhìn của chiến lược là tăng trưởng xuất khẩu nhanh và bền vững dựa trên cơ sở chất lượng và trình độ sản xuất của các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc dựa trên cơ sở khai thác mạnh mẽ lợi thế cạnh tranh và thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ và phát triển thị trường dịch vụ xuất khẩu của nhà nước, ưu tiên phát triển hợp lý các lĩnh vực xuất khẩu cho từng giai đoạn nhằm nâng cao giá trị gia tăng và chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Cụ thể, về thứ tự ưu tiên phát triển các ngành hàng xuất khẩu trong thời gian tới, các chuyên gia đã đề xuất 8 ngành hàng bao gồm đồ gỗ, sản phẩm điện - điện tử, nhựa, hàng thủ công mỹ nghệ, rau quả, hạt điều, đóng tàu, máy móc nông nghiệp.Các tiêu chí lựa chọn những ngành hàng này được dựa vào: khả năng gia tăng quy mô xuất khẩu trên 1 tỷ USD/ngành hàng trong thời gian dưới 5 năm.
Có thể là những ngành chưa phát triển, sức cạnh tranh chưa cao nhưng có nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển với quy mô lớn. Số lượng các ngành hàng được lựa chọn phải đảm bảo không quá nhiều so với khả năng các nguồn lực quốc gia có thể huy động được trong giai đoạn thực hiện chiến lược (2006 - 2010).
Về những vấn đề liên ngành, Việt Nam cần ưu tiên phát triển nhóm vấn đề về thông tin thương mại, tài chính thương mại, quản lý chất lượng xuất khẩu và hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu cho doanh nghiệp.
TBKTVN