Tin tức
Khu công nghiệp "xanh", nhà máy vẫn "xám": Đâu là điểm nghẽn?

Khu công nghiệp "xanh", nhà máy vẫn "xám": Đâu là điểm nghẽn?

27/11/2025

Banner PHS

Khu công nghiệp "xanh", nhà máy vẫn "xám": Đâu là điểm nghẽn?

Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp (KCN) sinh thái để thực hiện cam kết Net Zero 2050. Tuy nhiên, dù hạ tầng KCN được "xanh hóa", nhiều nhà máy bên trong vẫn vận hành theo lối "xám" với công nghệ lạc hậu và tiêu tốn tài nguyên. Điều gì đang cản trở quá trình chuyển đổi này và làm thế nào để các KCN thực sự xanh từ gốc đến ngọn?

Khoảng trống giữa nhãn hiệu và hiện thực của KCN sinh thái

Theo Nghị định 35/2022/NĐ-CP, một khu công nghiệp sinh thái phải đáp ứng nhiều tiêu chí nghiêm ngặt, từ việc dành tối thiểu 25% tổng diện tích cho đất xanh, giao thông và hạ tầng xã hội, cho đến yêu cầu các doanh nghiệp trong khu phải thực hiện sản xuất sạch hơn và tham gia hoạt động cộng sinh công nghiệp.

Chủ đầu tư hạ tầng cam kết đạt các tiêu chí này trong vòng 8 năm kể từ khi KCN được thành lập. Khung tiêu chuẩn này phù hợp với định hướng của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc và World Bank, đặc biệt chú trọng đến hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng, và việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải dùng chung.​

Tính đến quý 1/2025, cả nước có 433 KCN được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên lên tới gần 130,000ha. Trong số đó, có hơn 400 KCN đang hoạt động. Tuy nhiên, số lượng các KCN thực sự đạt chuẩn sinh thái hoặc đang trong quá trình chuyển đổi vẫn còn rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 1-2% tổng số[1]. Từ năm 2015 đến 2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với UNIDO triển khai thí điểm mô hình KCN sinh thái tại một số địa phương, với kết quả nổi bật từ các khu như Deep C (Hải Phòng), Amata Biên Hòa (Đồng Nai), Hiệp Phước (TP.HCM), Hòa Khánh (Đà Nẵng) và Trà Nóc (Cần Thơ)[2].​

Dù các con số về hạ tầng xanh có vẻ ấn tượng, thực tế cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp bên trong thực sự áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn, giảm phát thải carbon và tuần hoàn tài nguyên vẫn còn hạn chế. Giai đoạn 2020-2024, dự án UNIDO-SECO với kinh phí 1.8 triệu USD đã đề xuất 603 giải pháp sản xuất sạch hơn và hiệu quả tài nguyên, nhưng chỉ có 217 giải pháp được 88 doanh nghiệp triển khai, chiếm chưa đến 36%. Dù các giải pháp này đã mang lại kết quả đáng khích lệ, tiết kiệm 69.2 tỷ đồng mỗi năm và giảm 8,910 tấn CO2 - con số này vẫn khá khiêm tốn so với quy mô hơn 400 KCN đang hoạt động trên toàn quốc[3].​

Một thực tế khác là nhiều KCN được xây dựng từ giai đoạn 1990-2010 vẫn tồn tại các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cũ, tiêu tốn năng lượng. Mặc dù theo báo cáo của Cục Môi trường (Bộ NN&MT) vào giữa năm 2025, đã có đến 94.1% khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn, nhưng khâu giám sát vẫn là một khoảng trống lớn. Rất ít nơi triển khai hệ thống quan trắc tự động, liên tục và kết nối trực tuyến, tương tự như việc đo đếm phát thải khí nhà kính, khiến việc kiểm soát và quản lý quá trình chuyển đổi xanh thiếu hiệu quả[4].

Các điểm nghẽn cản trở chuyển đổi xanh trong nhà máy

Nguyên nhân khiến các nhà máy trong khu công nghiệp sinh thái chưa thực sự "xanh" như kỳ vọng có thể được phân tích qua bốn nhóm rào cản chính.

Rào cản chính sách và thực thi. Nghị định 35/2022/NĐ-CP đã thiết lập khung pháp lý cho khu công nghiệp sinh thái, song cơ chế giám sát, đo đếm và báo cáo vẫn còn lỏng lẻo.

Các tiêu chí chứng nhận chủ yếu tập trung vào chủ đầu tư hạ tầng, trong khi yêu cầu đối với doanh nghiệp thuê đất chưa đủ sức ép để buộc họ phải thay đổi mô hình sản xuất. Điều này tạo ra tình trạng KCN có thể đạt chứng nhận sinh thái về mặt hạ tầng, nhưng các doanh nghiệp vẫn hoạt động theo cách truyền thống. Theo Quyết định 280/QĐ-TTg, Việt Nam đặt mục tiêu có 80 tòa nhà xanh vào năm 2025 và 150 tòa nhà vào năm 2030, nhưng việc áp dụng tiêu chuẩn này vào KCN còn chậm và không đồng đều[5].​

Thứ hai là rào cản tài chính. Chi phí đầu tư vào công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và hệ thống sản xuất sạch hơn thường rất cao, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số trong các khu công nghiệp. IFC đã cam kết hơn 1.6 tỷ USD cho Việt Nam trong năm 2024, trong đó có hơn 750 triệu USD dành cho tài chính khí hậu[6], và ADB cam kết 3 tỷ USD hỗ trợ giai đoạn 2024-2026 cùng 2.1 tỷ USD cho Kế hoạch chuyển đổi năng lượng công bằng, thế nhưng khả năng tiếp cận các nguồn vốn này của doanh nghiệp nhỏ vẫn rất hạn chế[7].

Rào cản về công nghệ và năng lực khi nhiều doanh nghiệp thiếu thông tin về các giải pháp công nghệ phù hợp, thiếu nhân lực kỹ thuật để vận hành và bảo trì hệ thống sản xuất sạch. Chương trình Cải thiện Hiệu quả Tài nguyên của IFC đã hỗ trợ 112 cơ sở trong ngành dệt may với hơn 51 triệu USD, giúp tiết kiệm hơn 830,000 MWh điện và giảm hơn 360,000 tấn khí nhà kính mỗi năm[8]. Tuy nhiên, quy mô này vẫn chỉ là “giọt nước trong biển” so với hàng ngàn doanh nghiệp đang hoạt động trong các KCN. GIZ đã hỗ trợ Việt Nam phát triển khung pháp lý cho chuyển đổi năng lượng và chuyển giao công nghệ, nhưng việc nhân rộng các mô hình này vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ chế chia sẻ tri thức và kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp.​

Rào cản từ nhận thức và vai trò của ban quản lý KCN. Kết quả khảo sát Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) năm 2024 của VCCI cho thấy sự chênh lệch lớn về năng lực quản trị xanh giữa các địa phương, với Quảng Ninh là địa phương dẫn đầu. Trong khi đó, về môi trường kinh doanh chung, Chỉ số Năng lực Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ghi nhận Hải Phòng lần đầu tiên vươn lên vị trí số một với 74,84 điểm[9]. Sự khác biệt này cho thấy không phải lúc nào một môi trường kinh doanh tốt cũng đồng nghĩa với một chiến lược tăng trưởng xanh hiệu quả. Điều này càng làm nổi bật vấn đề khi nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức đầy đủ lợi ích kinh tế từ việc chuyển đổi xanh, hoặc coi đây là gánh nặng thay vì cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh.

Những hình mẫu tiên phong từ "xám" sang "xanh"

Bất chấp những thách thức, một số KCN và doanh nghiệp tại Việt Nam đã chứng minh rằng chuyển đổi xanh không chỉ khả thi mà còn mang lại lợi ích kinh tế.

KCN Deep C tại Hải Phòng, được phát triển bởi các nhà đầu tư Bỉ, là một trong những KCN tiên phong tham gia thí điểm KCN sinh thái của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UNIDO. Theo Khung quốc tế về KCN sinh thái với 9 chỉ tiêu chính, KCN DEEP C1 đã đạt được 9/9 chỉ tiêu[10]. Deep C cam kết đạt 50% năng lượng từ nguồn tái tạo vào năm 2030, bao gồm đầu tư vào hệ thống gió, mặt trời tại chỗ và hệ thống lưu trữ pin[11]. Bên cạnh việc xây dựng hạ tầng xanh, KCN này còn chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp giảm tiêu thụ điện và nước thông qua các giải pháp công nghệ như cảm biến phát hiện rò rỉ nước.

Amata Biên Hòa tại Đồng Nai được lựa chọn làm khu thí điểm trong dự án UNIDO-SECO giai đoạn 2020-2024. Amata đã đạt 86% tuân thủ tiêu chuẩn khu công nghiệp sinh thái vào tháng 1/2024, tăng từ mức 41% ban đầu[12]. KCN này đã thực hiện 60 cơ hội phát triển sinh thái, giúp giảm 1,588 tấn CO2 tương đương mỗi năm[13].

KCN Nam Cầu Kiền tại Hải Phòng từ năm 2015 đã xác định và triển khai hơn 50 mối quan hệ cộng sinh, trong đó có mạng lưới cộng sinh ngành thép. Mỗi năm, 55,000 tấn phế thải công nghiệp (bao gồm 50,000 tấn xỉ lò cao và 5,000 tấn xỉ thép cán) được chuyển hóa thành nguyên liệu cho sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, thay vì đổ vào bãi chôn lấp. Việc này giúp giảm 30% chi phí xử lý chất thải rắn, 25% chi phí xử lý chất thải nguy hại và 44% chi phí vận chuyển nguyên liệu thô, tương đương tiết kiệm 40 tỷ đồng (khoảng 1.6 triệu EUR) mỗi năm.

Đồng bộ từ chính sách đến doanh nghiệp

Để KCN Việt Nam thực sự "xanh" từ hạ tầng đến từng nhà máy, cần có một cú hích đồng bộ từ nhiều phía.

Về chính sách, cần nâng cấp bộ tiêu chí khu công nghiệp sinh thái gắn chặt với cam kết Net Zero 2050. Chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia 2021-2030 đã đặt mục tiêu giảm 1.0-1.5% tiêu thụ năng lượng trên một đơn vị GDP mỗi năm và đạt 15-20% tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp vào năm 2030. Đến năm 2050, mục tiêu là tỷ lệ năng lượng tái tạo đạt 25-30% và kinh tế số chiếm 50% GDP.

Tuy nhiên, để biến những mục tiêu này thành hiện thực, cần có cơ chế ưu đãi và chế tài rõ ràng hơn, ví dụ như gắn việc tuân thủ tiêu chuẩn xanh với ưu đãi thuế, phí hạ tầng và quyền ưu tiên trong đấu thầu các hợp đồng xuất khẩu. Năm 2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ xây dựng tiêu chí phân loại xanh quốc gia, hài hòa với thông lệ quốc tế, để cung cấp cơ sở pháp lý cụ thể cho việc lựa chọn dự án đầu tư ở cả cấp trung ương và địa phương[14].​

Về tài chính, cần phát triển các mô hình hợp tác công-tư để xây dựng hạ tầng xanh dùng chung và mở rộng các gói tín dụng xanh chuyên biệt cho doanh nghiệp trong KCN. GGGI đã huy động 410 triệu USD[15] cho các dự án xanh tại Việt Nam đến năm 2024 và đặt mục tiêu huy động 1 tỷ USD giai đoạn 2024-2028[16]. Khung Hợp tác Quốc gia mới của GGGI tập trung vào 7 lĩnh vực chiến lược gồm: đầu tư xanh, hành động khí hậu, công nghiệp xanh với trọng tâm vào các startup công nghệ khí hậu, nông nghiệp thích ứng khí hậu, quản lý chất thải, tòa nhà xanh và định giá carbon. IFC đã hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quy định quản lý rủi ro môi trường, tạo nền tảng cho các ngân hàng địa phương nâng cao hệ thống quản lý rủi ro liên quan đến môi trường và khí hậu. Tuy nhiên, để đảm bảo các nguồn vốn này thực sự tiếp cận được doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần có cơ chế trung gian hiệu quả hơn.​

Về vai trò chủ đầu tư hạ tầng, các công ty quản lý khu công nghiệp cần chuyển đổi từ vai trò đơn thuần cho thuê đất sang trở thành "nhà cung cấp dịch vụ xanh". Mô hình của Nam Cầu Kiền cho thấy khi chủ đầu tư chủ động xác định cơ hội cộng sinh công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp kết nối và thương lượng, lợi ích kinh tế và môi trường sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. KCN này đã thành lập câu lạc bộ Eco-Business để tạo điều kiện trao đổi thông tin và thực tiễn tốt nhất giữa các doanh nghiệp.

Về công nghệ và nền tảng số, cần xây dựng các hệ thống quản lý tài nguyên, năng lượng và kết nối cộng sinh công nghiệp trong nội khu. Hiện nay, đa phần KCN chưa áp dụng hệ thống giám sát môi trường theo thời gian thực và không đo đếm phát thải carbon định lượng. KCN Nam Cầu Kiền đã triển khai nền tảng số "Shinec Digital Green Economy" để thu thập dữ liệu phát thải carbon theo thời gian thực, phân tích các điểm nóng và hỗ trợ ra quyết định[17].​

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào tháng 4/2025, khoảng 40-50% các tỉnh, thành phố cả nước có kế hoạch chuyển đổi KCN hiện hữu thành KCN sinh thái đến năm 2030, trong đó 8-10% có định hướng xây dựng KCN sinh thái mới[18].


[1] https://nhandan.vn/tao-dot-pha-trong-phat-trien-khu-cong-nghiep-sinh-thai-post897139.html  

[2] https://www.mpi.gov.vn/en/Pages/2024-4-17/Eco-industrial-park-intervention-in-Vietnam--persplpp6jn.aspx  

[3] https://thanhtra.com.vn/dau-tu-72A9E3223/mo-hinh-khu-cong-nghiep-sinh-thai-mang-lai-hieu-qua-ben-vung-ve-kinh-te-va-moi-truong-32434070.html  

[4] https://doanhnhantrevietnam.vn/dien-dan-quan-ly-nguon-nuoc-trong-san-xuat-cong-nghiep-viet-nam-2025-d26068.html  

[5] https://www.evn.com.vn/d6/news/Chinh-sach-va-giai-phap-thuc-day-phat-trien-cong-trinh-xanh-0-668-121785.aspx  

[6] https://www.ifc.org/en/pressroom/2024/ifc-s-record-climate-financing-in-viet-nam-supports-green-transition-private-sector-resilience  

[7] https://sbv.gov.vn/vi/w/sbv590823  

[8] http://betterwork.org/greening-viet-nams-textile-and-garment-sector-a-high-stakes-challenge/  

[9] https://www.laocai.gov.vn/xuc-tien-thuong-mai-tinh-lao-cai/cong-bo-chi-so-nang-luc-canh-tranh-cap-tinh-nam-2024-1527222  

[10] https://www.anhp.vn/to-hop-khu-cong-nghiep-deep-c--tien-phong-kien-tri-phat-trien-kcn-sinh-thai-d60746.html  

[11] https://deepc.vn/vi/products-services/utilities/power  

[12] https://amata.com/news-media-vietnam/85-business-news-amata-vietnam/1225-amata-city-bien-hoa-scores-highest-in-the-eco-industrial-park-project  

[13] https://baodongnai.com.vn/kinh-te/202404/amata-city-bien-hoa-mo-hinh-khu-cong-nghiep-sinh-thai-tieu-bieu-c1c22f5/  

[14] https://en.baochinhphu.vn/national-green-growth-strategy-for-2021-2030-vision-towards-2050-11142515.htm  

[15] https://gggi.org/viet-nam-and-gggi-launch-the-new-2024-2028-country-plan-for-green-growth-and-climate-actions/  

[16] https://vietnamnews.vn/politics-laws/1716048/pm-welcomes-gggi-s-goal-to-mobilise-additional-1-billion-in-green-financing-for-viet-nam.html  

[17] https://haiphong.gov.vn/doanh-nghiep/cong-bo-giai-phap-so-quan-ly-phat-thai-carbon-tai-khu-nbsp-cong-nghiep-nam-cau-kien-757808  

[18] https://vietnamnews.vn/economy/1693250/half-localities-will-convert-existing-industrial-parks-into-ecological-models.html

Nguyễn Nhiều Lộc

FILI - 19:00:00 27/11/2025

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh
(cũ: Phường Tân Phú, Quận 7)

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng