Còn ý kiến khác nhau về gói kích cầu thứ hai
Khoảng giữa năm 2008, trước tình hình kinh tế thế giới biến động mạnh và những khó khăn đối với nền kinh tế trong nước đã xuất hiện những nhận định bi quan: tỷ lệ phá sản doanh nghiệp khoảng 20%, hệ thống ngân hàng sẽ gặp khó khăn và thất nghiệp gia tăng ở mức cao... Nhưng thực tế những chuyện đó đã không xảy ra.
Tất cả các chỉ số cho thấy kinh tế Việt Nam đã xuống đáy vào quí 1-2009 với GDP chỉ tăng 3,1% nhưng sau đó đã bắt đầu hồi phục, quí 2-2009 mức tăng GDP lên 4,5%, tiếp đến quí 3 ước đạt 5,76% và dự kiến quí 4 có thể đạt 6,57%.
Hầu như các quan điểm phân tích đều đồng ý rằng, để có những con số như trên là sự thay đổi linh hoạt trong chính sách tiền tệ, từ thắt chặt sang nới lỏng, cả tiền tệ lẫn tài khóa. Đi cùng là các gói kích thích kinh tế được Chính phủ đưa vào thực hiện trị giá 145.600 tỉ đồng, tương đương 8 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, đến thời điểm này, báo cáo mới nhất của Chính phủ cho rằng quy mô gói kích thích kinh tế chỉ khoảng 122.000 tỉ đồng, tương đương 6,9 tỉ đô la.
Tại buổi nói chuyện đánh giá về gói kích thích kinh tế thứ nhất và khả năng cho gói kích thích thứ hai do Phòng Thương mại châu Âu (Eurocham) tại Việt Nam tổ chức ngày 14-10-2009, Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Đức Thúy nhận định, thực chi năm nay chỉ khoảng 100.000 tỉ đồng. Vẫn còn khoảng 22.000 tỉ đồng vốn trung và dài hạn của gói kích cầu thứ nhất sẽ được chi ra trong giai đoạn 2010-2011.
Số tiền Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp, người dân về cơ bản nằm gọn trong chính sách hỗ trợ lãi suất 4%, trị giá 1 tỉ đô la, tương đương khoảng 17.000 tỉ đồng. Theo ông Thúy, nếu thực hiện tiếp các biện pháp hỗ trợ thì cũng không chi hết số tiền này. Ước tính, số tiền Chính phủ phải hỗ trợ khoảng 10.000-12.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 10% trong tổng số 122.000 tỉ đồng. Số tiền chi không lớn, nhưng đã chặn được đà giảm sút kinh tế, phục hồi được tăng trưởng, đẩy lùi mức tăng của lạm phát, duy trì sản xuất và đảm bảo được an sinh xã hội.
Như vậy, nếu tiếp tục những chính sách hỗ trợ tương tự như hiện nay, dù giảm về mức độ và quy mô, thì kèm với nó là nguy cơ lạm phát trở lại, bất ổn tài khóa... Đặc biệt, khi gói hỗ trợ lãi suất là cào bằng, cứu cả những doanh nghiệp không đáng cứu, tạo ra thị trường không bình đẳng, không thống nhất... dẫn đến bất công trong môi trường kinh doanh.
Mặt khác, nếu dừng các gói kích thích đúng hạn như đã cam kết, thì liệu điều đó có phanh lại những tín hiệu tích cực ban đầu của cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung. Ông Thúy nói: “Phục hồi tăng trưởng của Việt Nam là khá ấn tượng và tôi cho rằng theo hình chữ V. Phân tích sâu hơn có thể thấy rằng gói kích cầu vừa qua đóng góp tích cực cho sự phục hồi đó. Nhưng câu hỏi đặt ra là khi kết thúc năm 2009, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng bền vững mà không cần hỗ trợ bổ sung hay không. Tôi chưa nghe được câu trả lời nào có sức thuyết phục”.
Ông Thúy cũng đưa ra nhận định, lạm phát cao năm 2010 khó xảy ra, mà sẽ là muộn hơn vì cầu trong nước vẫn yếu và phục hồi kinh tế chậm, nên yếu tố do chi phí đẩy không tăng cao. Tăng trưởng tín dụng đạt 30% so với cuối năm ngoái và đến cuối năm nay sẽ khoảng 35%. Nhưng việc tăng tín dụng nằm trong bối cảnh đầu tư của doanh nghiệp và tiêu dùng của hộ gia đình giảm. Tiêu dùng hộ gia đình trong sáu tháng đầu năm nay giảm 5%, nên tổng cầu của xã hội tăng không cao, và lạm phát năm 2009 nhiều khả năng dưới 7%.
Vậy, câu hỏi đặt ra trước khi bàn đến gói hỗ trợ tiếp theo sẽ như thế nào, là liệu nền kinh tế có cần một gói hỗ trợ nữa hay không?
Cũng tại cuộc tọa đàm, Trưởng đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam Benedict Bingham cho rằng, đã có dấu hiệu kinh tế thế giới phục hồi và các chỉ số của thị trường tài chính đã khả quan hơn. Song theo IMF, triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 sẽ không hứa hẹn, bởi còn nhiều vấn đề đáng lo ngại như cầu về nhà đất và đầu tư vẫn ở mức thấp và tiếp cận tín dụng có khó khăn. Ông nói: “Triển vọng thị trường lao động cũng ở mức thấp, ít nhất cho đến hết quí 1-2010. Nhìn chung các nền kinh tế châu Á sẽ hồi phục từ từ nhờ vào gói kích cầu và IMF cho rằng các chính phủ châu Á nên duy trì các gói kích cầu cho đến khi nền kinh tế được cải thiện”.
Nhưng với Việt Nam, thông điệp của IMF lại trái chiều so với nhiều nước châu Á. Với quan điểm thận trọng về gói kích thích kinh tế, ông Bingham cho rằng, điều quan trọng nhất Việt Nam cần tiến hành hiện nay là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trước những tác động mà gói kích cầu tạo ra. Cùng với đó, cần ngừng chương trình kích thích kinh tế một cách có trật tự và thắt chặt chính sách tiền tệ, củng cố lại chính sách tài khóa.
Đến thời điểm này, IMF dự đoán tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2009 sẽ khoảng 4,5% và tăng lên khoảng 5,25% cho năm 2010 nhờ ba yếu tố. Thứ nhất, gói kích thích kinh tế của Chính phủ đã giúp tránh được sự suy thoái kinh tế. Thứ hai, khu vực dân cư đã bước vào cuộc khủng hoảng với vị thế tài chính khá mạnh, điều này đã hỗ trợ cho tiêu dùng tư nhân. Thứ ba, kinh tế thế giới đã bắt đầu hồi phục cũng đang hỗ trợ cho tăng trưởng. “Cả ba yếu tố này kết hợp lại đã giúp nền kinh tế Việt Nam hồi phục nhanh hơn”, ông nhận xét.
Tuy nhiên, theo IMF, những bất ổn tương tự những gì đã diễn ra vào năm 2008 dường như lại đang nổi lên, dù tính chất và nguyên nhân khác nhau. Mối lo ngại là lạm phát, thâm hụt tài khoản vãng lai và tiền đồng đang chịu nhiều áp lực. Lãi suất giữa tiền đồng và đô la Mỹ thu hẹp, vì thế nhiều người chuyển từ các khoản tiết kiệm tiền đồng sang tiết kiệm bằng đô la kỳ hạn dài.
Ông Bingham cho rằng, thách thức trước mắt với Chính phủ là tiếp tục đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong khi duy trì tăng trưởng. Ông nói: “Chúng tôi cho rằng Chính phủ không nên quá khẩn trương trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhằm tránh tạo áp lực lên cán cân thanh toán quốc tế và gây nguy cơ tái lạm phát. Sự duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng, vì thời kỳ hỗn loạn có thể tác động đến nhận thức của các nhà đầu tư về môi trường đầu tư của Việt Nam và có một tác động bất lợi lên luồng vốn vào Việt Nam cần thiết để tài trợ cho đầu tư mới”.
Ông khuyến nghị, Chính phủ cần tiếp tục theo đuổi các cải cách nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện tính cạnh tranh để chiếm được các lợi thế khi kinh tế toàn cầu hồi phục trong một vài năm tới. Trưởng đại diện IMF nói: “Biện pháp hiệu quả nhất, theo tôi là xóa bỏ dần ngay cơ chế hỗ trợ lãi suất. Biện pháp thứ hai cần làm là xử lý trần lãi suất cho vay”.
Các ý kiến liên quan đến gói kích thích kinh tế
- Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội Phùng Quốc Hiển: Việc tiếp tục thực hiện một số chính sách kích thích kinh tế trong giai đoạn phục hồi kinh tế là cần thiết... nhưng không nên thực hiện kích thích kinh tế mang tính dàn đều, bình quân như hiện nay mà chuyển sang kích thích có trọng tâm, trọng điểm, tập trung nguồn lực để cơ cấu lại nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu và bền vững.
- Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Hà Văn Hiền: Gói hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn đã hoàn thành vai trò “giải cứu” cho một bộ phận doanh nghiệp khó khăn, nếu tiếp tục duy trì sẽ gây khó khăn cho chính sách tiền tệ, bảo đảm cân đối vĩ mô. Nên dừng chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn đúng thời hạn công bố.
- Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh: Vẫn nên duy trì kích cầu để kích thích nền kinh tế, song mức độ phải khác, không giống như lúc kinh tế suy giảm. Nên dừng việc hỗ trợ miễn giảm thuế nói chung. Chỉ nên duy trì hỗ trợ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư vào sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, tài sản cố định.
Câu hỏi chưa được giải đáp
Mới đây, khi Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội công bố chỉ số ICOR của Việt Nam hiện nay là 8, không ít người đã đặt câu hỏi liệu tăng trưởng của Việt Nam có trả giá đắt không.T
rong các năm qua, chỉ số ICOR của Việt Nam vốn đã cao lại còn liên tục tăng (từ 2001-2007 là 5,2, năm 2008 là 6,66), điều này đồng nghĩa với việc hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế đã thấp lại còn tiếp tục giảm. Vậy, liệu có nên tiếp tục đầu tư vốn chỉ vì muốn tăng trưởng cao khi mà nguồn lực ngân sách có hạn, cả ở hiện tại lẫn trong tương lai gần.
Khi Chính phủ có văn bản gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội để báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2009 và dự kiến kế hoạch đầu tư cho năm 2010, mặc dù ước tính vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trong năm 2009 sẽ tăng khoảng 63% so với thực hiện năm 2008 và tăng 42,7% so với kế hoạch năm, nhưng Chính phủ vẫn đề nghị tăng mức chi cho đầu tư phát triển của năm 2010 khoảng 13,5% so với dự toán năm 2009. Điều này khiến không ít người băn khoăn bởi hiệu quả đầu tư năm 2009 vốn đã thấp, nay lại có kế hoạch “viện trợ” tiếp trong năm 2010. Đọc báo cáo này, không ít người lại tiếp tục đặt thêm một câu hỏi, chi phí cơ hội cho việc tăng đầu tư phát triển này sẽ như thế nào? Ngoài chi phí cơ hội, có lẽ còn phải tính thêm những rủi ro hay bất ổn từ việc gia tăng vốn này, chẳng hạn như việc tăng thâm hụt ngân sách, nợ nần quốc gia và cả lạm phát.
Nhìn lại quá trình đi lên của các nước phát triển, có một đặc điểm chung là các quốc gia đều trải qua quá trình tăng trưởng với tốc độ cao đủ để gia tăng về quy mô của nền kinh tế trước khi chuyển sang phát triển mạnh về chiều sâu. Dẫu vậy, hầu hết các nước đều không mạo hiểm thực hiện quá trình tăng trưởng này nếu hệ số ICOR quá cao (thường ở mức dưới 4,5). Vì thế, Việt Nam cũng không nên là một ngoại lệ.
Phan Thanh Tịnh
TBKTSG