Tin tức
CPH Vinaconex: Định giá DN vẫn là khâu vướng nhất

CPH Vinaconex: Định giá DN vẫn là khâu vướng nhất

15/09/2004

Banner PHS

CPH Vinaconex: Định giá DN vẫn là khâu vướng nhất

Một loạt khó khăn bắt đầu nảy sinh tại Vinaconex khi Tổng công ty này chuẩn bị thực hiện cổ phần hóa (CPH) toàn bộ theo Quyết định số 84/QĐ-CP về việc chọn Vinaconex làm thí điểm CPH toàn bộ Tổng công ty. Đó không chỉ là việc thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, các đơn vị đã xong CPH có phải đánh giá lại giá trị không, xác định giá trị thương hiệu Tổng công ty như thế nào, mà còn là việc tính giá trị quyền sử dụng đất, xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính, mô hình tổ chức hoạt động của Tổng công ty, quản lý phần vốn Nhà nước tại công ty mẹ – công ty con...

Một loạt khó khăn bắt đầu nảy sinh tại Vinaconex khi Tổng công ty này chuẩn bị thực hiện cổ phần hóa (CPH) toàn bộ theo Quyết định số 84/QĐ-CP về việc chọn Vinaconex làm thí điểm CPH toàn bộ Tổng công ty.

Đó không chỉ là việc thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, các đơn vị đã xong CPH có phải đánh giá lại giá trị không, xác định giá trị thương hiệu Tổng công ty như thế nào, mà còn là việc tính giá trị quyền sử dụng đất, xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính, mô hình tổ chức hoạt động của Tổng công ty, quản lý phần vốn Nhà nước tại công ty mẹ – công ty con.

 

Theo ông Nguyễn Đình Thiết, kế toán trưởng, Tổng công ty Vinaconex, trong số 42 doanh nghiệp thành viên hiện nay của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (Vinaconex) có 15 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, 14 doanh nghiệp cổ phần được hình thành do cổ phần hóa DNNN, 13 doanh nghiệp cổ phần được thành lập mới mà vốn của Vinaconex chiếm 50% vốn điều lệ. Ngoài ra, Vinaconex còn có vốn góp ở 15 công ty cổ phần khác hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất điện, xi măng, dịch vụ và thương mại khác.

Trong chương trình đổi mới quản lý và phát triển doanh nghiệp năm 2004, Tổng công ty tiếp tục cổ phần hoá 9 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp để phấn đấu đến năm 2005 hầu hết doanh nghiệp thành viên của Vinaconex sẽ hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần.

 

Tính đến thời điểm 31/12/2003, Tổng công ty đã cổ phần hoá được 14 doanh nghiệp độc lập và bộ phận doanh nghiệp theo hình thức cổ phần hoá là giữ nguyên phần vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trên 51%). Vốn điều lệ của 14 công ty cổ phần hoá là 100.205 triệu đồng, trong đó: Vinaconex nắm giữ: 55.210 triệu đồng, chiếm trên 55% vốn điều lệ, thể nhân là 44.995 triệu đồng, chiếm 45% vốn điều lệ.

 

Theo đánh giá của Vinaconex, sau cổ phần hoá, 14 doanh nghiệp đều có sự tăng trưởng vững chắc về chất lượng. Tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả hơn so với trước khi cổ phần hoá. Công tác tài chính, kế toán được công khai, minh bạch hơn do có sự kiểm soát của các cổ đông. Nguồn vốn của doanh nghiệp được tăng lên đáng kể do doanh nghiệp giữ nguyên phần vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu. Đặc biệt, cổ tức các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đạt 13 - 14%.

Tuy nhiên theo ông Thiết, khó khăn trong quá trình cổ phần hoá không phải là không có. Khó đầu tiên phải kể tới là khó trong định giá doanh nghiệp. Việc xử lý nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp theo Nghị định số 69/2002/NĐ - CP ngày 12/7/2002 và các quy định hiện hành rất hạn chế nên trong quá trình tiến hành CPH chỉ có hai doanh nghiệp được xử lý xoá nợ phải thu không có khả năng thu hồi với tổng số tiền 2.458.633.239 đồng. Điều này khiến cho tình hình tài chính sau cổ phần hoá ở một số công ty cổ phần chưa thật sự lành mạnh, giá trị doanh nghiệp vẫn phải gánh nợ xấu (không xử lý được nợ phải thu khó đòi).

 

Đối với việc xác định giá trị thương hiệu lại càng khó hơn do mang nặng tính chủ quan (cảm tính), không đánh giá đúng giá trị thương hiệu. “Ở Việt Nam thị trường chứng khoán còn non yếu, chưa có các công ty định giá có uy tín nên rất khó đánh giá được giá trị thương hiệu Tổng công ty. Mặt khác, theo các quy định pháp lý hiện hành thì giá trị thương hiệu thuộc về Nhà nước, giá trị thương hiệu là phần góp vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp, do đó tính giá trị thương hiệu mang tính chủ quan (tính sao cho doanh nghiệp có thể chịu được, chấp nhận được) chứ chưa căn cứ vào giá trị thực của thương hiệu. Chính vì vậy, Nhà nước phải có hướng dẫn chung về tính giá trị thương hiệu và phân bổ giá trị thương hiệu”, ông Thiết giải thích thêm.

 

Đối với giá trị lợi thế doanh nghiệp, việc tính giá trị lợi thế thương mại hiện nay chỉ mang tính lý thuyết mà chưa có tính thực tiễn. Vì vậy, theo kiến nghị của Vinaconex, nên bỏ tính giá trị lợi thế thương mại khi xác định giá trị doanh nghiệp mà chỉ nên tính đúng, tính đủ giá trị thương hiệu. Trên thực tế, vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp hiện nay so với vốn sử dụng trong sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nên dùng nó làm cơ sở để tính giá trị lợi thế doanh nghiệp là không chính xác, không có tính thực tiễn. Lợi nhuận của doanh nghiệp trong 03 năm trước khi cổ phần hoá nhiều trường hợp mang tính nhất thời (do chính sách của Nhà nước có lợi cho doanh nghiệp, hoặc do Tổng công ty tạo nguồn lực để vực công ty), không ổn định lâu dài và chưa thực sự là một lợi thế.

 

Các doanh nghiệp trong Tổng công ty áp dụng hình thức cổ phần hoá là giữ nguyên phần vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu. Đối với các doanh nghiệp có bề dày hoạt động, đóng trên địa bàn Hà Nội, hoạt động ổn định (và có lợi nhuận cao) thì phát hành cổ phiếu thuận lợi. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hoặc bộ phận doanh nghiệp, số cán bộ công nhân viên ít, đóng xa trung tâm kinh tế thì phát hành cổ phiếu khó khăn, ngay cả cổ phiếu ưu đãi cũng không mua hết, phát hành cổ phiếu ra bên ngoài cũng gặp khó khăn.

 

Ngoài ra, những khó khăn sau cổ phần hoá như: hiện tượng giá trị doanh nghiệp đã xác định sau khi công ty cổ phần đi vào hoạt động phát sinh doanh thu giảm rất khó điều chỉnh, do phát sinh công nợ không thu hồi được, doanh thu xây lắp bị cắt do thẩm định lại, vay vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đối xử thiếu công bằng, vốn điều lệ thấp nên tham gia đấu thấu khó khăn

Việc vay vốn ngân hàng gặp khó khăn do chính sách cho vay của ngân hàng hiện nay vẫn ưu tiên khu vực kinh tế Nhà nước. Các công ty cổ phần vốn điều lệ nhỏ, ngân hàng khống chế tỷ lệ cho vay theo vốn tự có thì sẽ khó khăn cho doanh nghiệp.

TBKTVN

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng