Dầu khí cần cơ chế đầu tư ra nước ngoài
Chính thức khởi động từ năm 1998 với một số dự án đầu tư tại Iraq, Mông Cổ và Malaysia, nhưng phải đến khi thành lập Công ty Đầu tư Phát triển dầu khí (PIDC) chuyên lo việc đầu tư ra nước ngoài, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) mới định hình được chiến lược đầu tư bài bản.
Chính thức khởi động từ năm 1998 với một số dự án đầu tư tại Iraq, Mông Cổ và Malaysia, nhưng phải đến khi thành lập Công ty Đầu tư Phát triển dầu khí (PIDC) chuyên lo việc đầu tư ra nước ngoài, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) mới định hình được chiến lược đầu tư bài bản.
Tuy nhiên, để mang được "vàng đen" về nước đáp ứng mục tiêu gia tăng sản lượng lại là chuyện không hề đơn giản.
5 năm, ký 5 hợp đồng dầu khí
"Tìm được một cơ hội đầu tư, nhưng để biến cơ hội thành những hợp đồng được ký kết không hề đơn giản một chút nào", TS Đỗ Văn Hậu, Giám đốc PIDC cho biết.
Sau 5 năm tìm kiếm không mệt mỏi, đãi cát tìm vàng, PIDC đã tiến hành nghiên cứu tài liệu và đánh giá trên 40 dự án ở các nước khác nhau thuộc các khu vực Đông Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi, Nga và Trung Mỹ, nhưng rút cục chỉ mới ký được 5 dự án (chiếm tỷ lệ 24%) và 1 dự án mua tài sản (tăng tỷ lệ cổ phần lên 15% trong đề án PM-304), chiếm 4,7%.
PIDC rút ra kết luận sau 5 năm "đem chuông đi đánh nước người" là: "Chủ động, vững chắc, giảm thiểu rủi ro, lấy ngắn nuôi dài".
Các hợp đồng đã ký kết hầu hết là đều xuất phát từ mối quan hệ sẵn có của Việt Nam với nước chủ nhà như hợp đồng tìm kiếm thăm dò mỏ dầu Amara (Iraq); các lô dầu khí 433a và 416b ở Angeri (trong đó PIDC là nhà điều hành); lô PM-304 và SK-305 ngoài khơi Malaysia; các lô 19, 21, 22 Tamtsag (Mông Cổ)...
Để giảm thiểu rủi ro, PetroVietnam chủ trương thận trọng trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư. PetroVietnam ưu tiên hàng đầu cho các dự án mua tài sản dầu khí (mua cổ phần trong các hợp đồng phát triển khai thác, tiến tới mua công ty sở hữu tài sản khi khả năng cho phép). Việc mua tài sản có mức độ rủi ro thấp hơn so với các dự án thăm dò, song cũng đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, thường vượt xa khả năng tài chính và quyền tự quyết của PetroVietnam.
Ngược lại, với các dự án phải bỏ vốn thăm dò, PetroVietnam lựa chọn hình thức liên doanh với các đối tác có tiềm lực tài chính và công nghệ, hình thành các liên minh tham gia đầu tư vào nhiều dự án nhằm chia sẻ và giảm thiểu rủi ro. TS Đỗ Văn Hậu cho biết: "Hình thức hợp tác này còn là điều kiện cần thiết để chúng ta tích luỹ, học hỏi kinh nghiệm quản lý điều hành và thực hiện dự án, xây dựng đội ngũ cán bộ trưởng thành qua các đề án thăm dò dầu khí ở nước ngoài, tiến tới tự điều hành những dự án tương tự".
Hiện nay, cả 5 hợp đồng còn lại đang được các nhà thầu và PIDC tích cực triển khai. Các bên tham gia đã thu nổ tổng cộng trên 6.000km tuyến địa chấn 2D và khoảng 1.500 km2 địa chấn 3D, khoan 5 giếng thăm dò thẩm lượng, trong đó hợp đồng lô PM-304 (Malaysia) đã bước vào giai đoạn phát triển, với mục tiêu có dòng dầu đầu tiên từ mỏ Cendor vào cuối 2006.
Theo dự báo, mỏ Cendor có trữ lượng thu hồi khoảng 35-40 triệu thùng dầu, giai đoạn đầu dự kiến cho mức sản lượng khai thác 12.000 thùng/ngày. Hợp đồng này PIDC có 15% cổ phần.
Hợp đồng thăm dò thẩm lượng dầu khí lô 433a và 416b Angeri cũng khá khả quan do PIDC là điều hành (chiếm 40% cổ phần). PIDC đã tiến hành thu nổ địa chấn 2D, hiện đang khoan thẩm lượng và thăm dò các phát hiện dầu và cấu tạo triển vọng trong lô. Tại giếng khoan MOM-2b, sau khi kết thúc thử vỉa 1 giếng khoan thẩm lượng đã thu được nhiều dấu hiệu dầu khí có triển vọng. Dự báo trữ lượng dầu tại giếng MOM khoảng từ 150-200 triệu thùng.
Theo đánh giá của Petro Vietnam, tổng trữ lượng dầu khí của các phát hiện từ các hợp đồng đầu tư ra nước ngoài hiện có khoảng 120 triệu m3 quy dầu, trong đó phần mang về nước (tính theo tỷ lệ PetroVietnam tham gia) khoảng 80 triệu m3 quy dầu.
PetroVietnam đặt mục tiêu, giai đoạn 2005-2010 tập trung đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm dự án mới ở nước ngoài để có thể ký được 6-7 dự án thăm dò dầu khí và khai thác, trong đó mua được từ 1- 2 tài sản, gia tăng trữ lượng dầu khai thác ở nước ngoài khoảng 35-40 triệu tấn quy dầu để bắt đầu có sản lượng khai thác vào cuối năm 2006.
Đến năm 2010, sản lượng dầu khí khai thác từ nước ngoài dự kiến ổn định ở mức 1-2 triệu tấn quy dầu; đến năm 2015 đạt từ 3-4 triệu tấn và 5-6 triệu tấn từ sau năm 2020.
Cơ chế cho đầu tư ra nước ngoài
Mặc dù đã có một số kết quả nhất định, song theo PetroVietnam việc triển khai các dự án thăm dò dầu khí ở nước ngoài vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn: tỷ lệ ký được dự án thấp, các lô đã ký được đánh giá có tiềm năng và triển vọng thấp, cơ hội mua cổ phần ở nước ngoài thành công càng trở nên khó khăn.
Một trong những lý do chính, theo PetroVietnam là do thủ tục pháp lý của Việt
"Thêm vào đó, quy trình đánh giá tài sản và trình duyệt của ta rất phức tạp, không đáp ứng thời gian đấu thầu quy định nên đã có trường hợp làm lỡ cơ hội đầu tư", ông Hậu bổ sung.
Petro Vietnam kiến nghị Chính phủ cần sớm ban hành các chính sách và cơ chế thống nhất thuận lợi để tạo điều kiện cho hoạt động dầu khí ở nước ngoài như quy chế đầu tư thăm dò dầu khí ra nước ngoài, quy chế về thành lập mới hoặc mua lại công ty ở nước ngoài, quy định về tái đầu tư, chuyển lợi nhuận...
Cơ chế phải đảm bảo nguyên tắc thống nhất quản lý hoạt động dầu khí ở nước ngoài, đồng thời phải mở rộng phát huy tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh của PetroVietnam. Nhà nước cần có quy định cụ thể về quy trình thẩm định, phê duyệt dự án nhằm giảm thiểu những thủ tục trình duyệt phức tạp, vừa lãng phí thời gian, vừa làm mất cơ hội đầu tư.
TBKTVN