“Đóng gói” hệ thống pháp luật
Việc Việt Nam thông qua một khối lượng văn bản pháp lý liên quan tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư có thể nói là khổng lồ trong một thời gian ngắn trước và sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO được ghi nhận là ấn tượng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Andrew Currie, Chủ tịch quốc gia Hiệp hội doanh nghiệp Australia tại Việt Nam khẳng định, những động thái này đóng vai trò đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam trong tương lai. Và đương nhiên, người hưởng lợi không chỉ là nhà đầu tư, doanh nghiệp mà chính là nền kinh tế, người dân Việt Nam nói chung.
Tuy vậy, những luật chơi được đánh giá rất cao của Việt Nam vẫn lại tiếp tục không thực sự có được niềm tin chắc chắn từ phía đông đảo nhà đầu tư. Những diễn biến gần đây về sự chưa rõ ràng, chưa cụ thể và chưa thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật cũng như sự chậm trễ trong việc thực thi do không có được các văn bản hướng dẫn đồng bộ tiếp tục khiến giới đầu tư luôn phải phát biểu theo hướng đặt nhiều kỳ vọng.
Thậm chí, trao đổi với ĐTCK về sự chậm trễ trong văn bản hướng dẫn Nghị định 23/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ông Nguyễn Trọng Bình, Phó tổng giám đốc Công ty LG Electronics Việt Nam phải thừa nhận rằng, rất khó khăn trong việc giải thích với các vị lãnh đạo người nước ngoài khi những quyền lợi chính đáng của họ không thể thực hiện, chỉ bởi lý do là chưa có văn bản hướng dẫn. “Đương nhiên là họ không cảm thấy thoải mái song với thời gian hoạt động ở Việt Nam khá lâu, có lẽ nhà đầu tư nước ngoài cũng đành phải quen với sự chậm trễ”, ông Bình bình luận.
Hơn nữa, tốc độ cải cách nhanh pháp lý cũng thường kéo theo một số rủi ro về các quy định yếu kém, chưa rõ ràng. Ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam đã lấy Luật Công chứng làm ví dụ: “Mặc dù Luật Công chứng đã có hiệu lực từ cuối năm 2006, song đến nay các văn bản hướng dẫn vẫn chưa hoàn thành. Hậu quả là vai trò của công chứng viên nhà nước không rõ ràng, gây nên tình trạng chậm trễ đối với các giao dịch và sự thiếu chắc chắn trong một số trường hợp đối với khả năng thi hành các giao dịch đã được ký kết”.
Ở khía cạnh khác của hệ thống pháp lý, ông Andrew tiếp tục bày tỏ lo ngại về thực trạng thiếu năng lực, quyền hạn và ý chí xét xử một cách hữu hiệu và công tâm đối với các tranh chấp liên quan của hệ thống tư pháp, nhất là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài giữa các nhà đầu tư. Một kinh nghiệm đã được đúc rút là chính hệ thống tư pháp độc lập và hiệu quả có vai trò sống còn để xây dựng môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn. “Chúng tôi được tư vấn tìm tới các trung tâm trọng tài quốc tế khi có tranh chấp. Đó là một phương thức giải quyết song lại không thể thay thế cho việc nâng cao năng lực và quyền hạn của hệ thống tư pháp để xử lý các tranh chấp kinh doanh và thương mại. Chúng tôi kiến nghị Chính phủ Việt Nam có bước cải cách để đảm bảo rằng, hệ thống tư pháp có thể giải quyết các tranh chấp một cách hiệu quả và rằng, toà án và trọng tài địa phương có thể thi hành các bản án quốc tế đã có hiệu lực pháp lý tại Việt Nam, kể cả những trường hợp liên quan đến doanh nghiệp nhà nước”, ông Andrew nói.
Thực ra, điều mà nhiều nhà đầu tư gửi gắm khi nói về môi trường kinh doanh của Việt Nam, đó là sự chứng minh bằng hành động của Việt Nam trong việc thực hiện tốt các cam kết cũng như phát huy được tiềm năng của mình. Hay nói như một số nhà đầu tư thì Việt Nam cần xem xét để có được một hệ thống pháp lý đảm bảo tính “trọn gói” các văn bản liên quan đến một luật nào đó được ban hành cùng một lúc. Có nghĩa là luật, nghị định và cả thông tư cần có hiệu lực cùng lúc để đảm bảo mọi luật chơi đã được nhắc tới đều được áp dụng đúng như đã định.
Sự đúng lúc và trọn gói của hệ thống pháp lý không chỉ tạo nên niềm tin về môi trường kinh doanh mà còn là cơ sở quan trọng để nhà đầu tư có thể tính toán được những kế hoạch kinh doanh của mình tại Việt Nam một cách đầy đủ và ít rủi ro nhất.
Sự rõ ràng, minh bạch trong mọi quy định cũng khiến cho cơ hội phát sinh tiêu cực và tham nhũng giảm đi rất lớn khi mà việc xây dựng các quy định này được đảm bảo theo hướng lấy ý kiến rộng rãi mọi đối tượng liên quan một cách nghiêm túc. Có lẽ, phải nhắc lại bài học PMU 18 khi mới đây, Ngân hàng Thế giới đã công bố kết quả điều tra rằng, không có dấu hiệu tham nhũng với hai dự án có sử dụng nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi sự đều đã rõ ràng. Ông Martin Rama, Quyền giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới cũng đã phải nhắc tới những bất hợp lý trong các quy định về định mức chi, quy định về quản lý tài chính cũng như khả năng “cạnh tranh giả đò” trong đấu thầu của những dự án này. “Không thể duy trì một hệ thống định mức chi đã cổ lỗ khi giá cả thị trường thay đổi rất nhanh. Các doanh nghiệp muốn cạnh tranh, đa dạng mức giá thì lại phải “xin-cho” để được lờ đi những quy định về định mức chi. Đây chính là điều kiện để cho tham nhũng xuất hiện”, ông Martin phân tích.
ĐTCK