FDI – Đáng mừng và đáng lo
Thời gian qua nguồn FDI đổ vào Việt Nam tăng lên mức kỷ lục và nhanh chóng. Tuy nhiên, nỗi mừng lại kèm theo những lo âu. Nếu không có một chính sách vĩ mô tốt thì những nguy cơ tiềm ẩn của FDI sẽ là điều khó tránh được.
Đáng mừng
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của đất nước luồng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng. Tính từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 1988 đến hết 2007 tổng số vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng gần 90 tỷ USD và với trên 45 tỷ USD vốn thực hiện. Nếu tính theo vốn FDI/người thì Việt nam dẫn đầu các nước hiện nay.
Mấy năm gần đây FDI đổ vào nước ta tăng với cấp số nhân. Nếu như năm 2006 mới có 10,2 tỷ USD thì năm 2007 đã lên tới 21,3 tỷ USD, gần bằng tổng số vốn đầu tư của 5 năm 2001-2005 và bằng gần 1/5 tổng số vốn FDI trong vòng 20 năm qua. 7 tháng đầu năm nay tổng số vốn FDI đăng ký đạt 45 tỷ USD, chiếm gần một nửa tổng số vốn FDI đổ vào VN từ 20 năm nay, trong đó lượng vốn giải ngân đạt 7 tỷ USD.
Điều đó đã khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường kinh tế nước ta và tính hấp dẫn của nền kinh tế đối với các nhà đầu tư.
Rõ ràng đầu tư nước ngoài đang đem lại cho nền kinh tế nước ta những lợi ích rõ rệt. Nó giúp cho Nhà nước có thêm nguồn vốn bổ sung; giúp các DN trong nước tiếp thu được công nghệ tiên tiến và bí quyết quản lý; giúp các DN nội địa tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu; tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động…
Hiện nay FDI đóng góp tới 35,6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, nhiều hơn phần đóng góp của các DNNN và khu vực kinh tế tư nhân. FDI đã đóng góp khoảng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 16% GDP và gần 20% giá trị xuất khẩu . Chỉ riêng 7 tháng đầu năm nay khu vực kinh tế có FDI đã thu hút thêm 16.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có FDI lên 1,38 triệu người. Các DN có FDI cũng đã nộp ngân sách 1,1 tỷ USD, tăng 44,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
… Và đáng lo
Tuy nhiên việc luồng vốn nước ngoài đổ vào nước ta thời gian qua tăng lên nhanh chóng đã khiến xuất hiện các nguy cơ tiềm ẩn xấu đối với nền kinh tế. Đó là nguy cơ thâm hụt thương mại rất lớn. 7 tháng đầu năm nay Việt Nam xuất khẩu được 36,8 tỷ USD, tăng 38%, trong khi đó khu vực có FDI xuất khẩu đạt 16,5 tỷ USD, tăng trên 40%. Kim ngạch nhập khẩu đạt 52 tỷ USD, tăng gần 57% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy 7 tháng đầu năm ta đã nhập siêu gần 16 tỷ USD. Đây là con số đáng lo ngại. Mức thâm hụt này đối lập rõ nét với dòng vốn FDI khổng lồ và một khi dòng vốn này rút khỏi thị trường thì khủng hoảng tiền vốn là khó tránh khỏi.
Theo đánh giá của ông Jonathan Pincus, chuyên gia hàng đầu về kinh tế Việt Nam của UNDP thì Việt Nam đang chịu thâm hụt thương mại và lệ thuộc phần lớn vào FDI để bổ sung cho thâm hụt thương mại đó. Ông cho rằng một khi nguồn vốn FDI suy giảm thì Việt Nam sẽ không đủ bù cho thâm hụt thương mại được. Ông cho biết “những công ty nước ngoài tạo ra xuất khẩu thì cũng tạo ra nhập khẩu. Trong trường hợp họ tạo ra nhập khẩu lượng hàng hóa lớn hơn xuất khẩu thì Việt Nam sẽ chịu thâm hụt thương mại. Thực tế điều này đang xảy ra ở VN”.
Trong tổng số vốn FDI đổ vào Việt Nam thì có tới già nửa đổ vào các ngành khai thác tài nguyên, các ngành công nghiệp được bảo hộ, các ngành công nghiệp gây ô nhiễm và lĩnh vực bất động sản. Đó là một cơ cấu đầu tư không tốt bởi lẽ: thứ nhất, các ngành khai thác tài nguyên là các ngành không có sức lan tỏa, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển; thứ hai, các ngành công nghiệp được bảo hộ thì sẽ không có sức cạnh tranh; thứ ba, vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận nước ngoài hưởng còn hậu quả thì nước ta phải gánh chịu và thứ tư, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản thì nó sẽ thổi phồng quả bóng BĐS làm cho nó dễ dàng nổ tung.
Nói về tiếp thu công nghệ tiên tiến thì cho đến nay công nghệ được sử dụng ở Việt Nam mới cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và sản phẩm cùng loại của khu vực kinh tế trong nước. Phần lớn là nhập từ châu Á (69%) và Đông Nam Á (19%). Các nước châu Âu chỉ chiếm 24%, châu Mỹ - 5%, các nước G-8 – (23,7%). Nếu không khéo chúng ta dễ biến thành bãi rác thải các công nghệ kém tiên tiến của các nước phát triển.
Khuynh hướng tiêu dùng tăng nhanh cũng dễ dàng làm kiệt quệ nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nhanh chóng mở rộng quy mô nợ của nhà nước. Hai năm qua tiêu dùng ở nước ta tăng rất nhanh không chỉ ở thị trường bất động sản hay vàng mà còn ở thị trường hàng tiêu dùng cao cấp như ô tô. Tốc độ tiêu dùng chóng mặt đó góp phần đẩy lạm phát lên cao mà đến lượt mình lạm phát sẽ làm cho kinh tế trì trệ và nguy cơ mất giá đồng tiền tăng lên. Mặt khác lạm phát cao sẽ làm thay đổi cơ cấu đầu tư nước ngoài theo hướng bất lợi cho Việt Nam…Đó là chưa kể việc các tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam sẽ đè bẹp các đối thủ cạnh tranh trong nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ nếu như Nhà nước không có chính sách cơ cấu đầu tư hợp lý.
Nếu kinh tế vĩ mô được điều hành tốt thì dòng tiền nước ngoài sẽ đổ vào một cách hợp lý nhưng ngược lại nếu có sự điều chỉnh trong chính sách vĩ mô thì đồng vốn nước ngoài sẽ được rút ra nhanh chóng và sẽ gây ra thiếu hụt đột ngột trong tính thanh khoản của thị trường. Mặc dù cho đến nay khoản nợ xấu của nước ta vẫn nằm trong phạm vi có thể kiểm soát được song điều đó không có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô lại không tính đến nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra từ chính các nguồn FDI mang lại./.
tổ quốc