Giải pháp đầu tư nào cho doanh nghiệp bảo hiểm?
Làm thế nào để khuyến khích, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm? Bao giờ doanh nghiệp bảo hiểm được cho vay trực tiếp như ngân hàng?
Làm thế nào để khuyến khích, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm? Bao giờ doanh nghiệp bảo hiểm được cho vay trực tiếp như ngân hàng?
Xung quanh những vấn đề này có rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau được đưa ra bàn tại Hội thảo “Giải pháp khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm” diễn ra vào trung tuần tháng 8 vừa qua.
Diễn đàn kỳ này, chúng tôi xin trích đăng các ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp.
Doanh nghiệp bảo hiểm nên thành lập tổ chức đầu tư độc lập
(Ông Phạm Phan Dũng, Vụ trưởng Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính)
“Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đang nghiên cứu và soạn thảo Nghị định hướng dẫn cho vay đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Vấn đề là chúng ta coi trọng kinh doanh bảo hiểm đầu tư hay coi trọng cho vay. Chúng tôi vẫn khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm nên thành lập tổ chức đầu tư độc lập và coi đó là hướng đi đúng hơn là thành lập ngân hàng cho vay vốn.
Hiện nay, hoạt động bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn ở nước ta trên các giác độ: các doanh nghiệp, các tổ chức bảo hiểm vừa là nhà phát hành chứng khoán, là định chế trung gian tài chính và vừa là nhà đầu tư trên thị trường vốn.
Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm diễn ra khá phong phú. Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng các nguồn như: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện; các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại doanh nghiệp và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư.
Thông qua hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập được nguồn tài chính lớn để đầu tư trở lại nền kinh tế, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường vốn. Tổng nguồn vốn thực tế đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt
Dự kiến năm 2004, tổng số vốn các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 16.667 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2003.
Cơ cấu đầu tư đã được chuyển mạnh từ ngắn hạn sang đầu tư dài hạn vào trái phiếu Chính phủ, các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống xã hội (tỷ trọng đầu tư trái phiếu Chính phủ từ 34% năm 2003 đã nâng lên thành 49% tương đương trên 8.086 tỷ đồng năm 2004; gửi tiền tại các tổ chức tín dụng từ 57% năm 2003 đã giảm xuống còn 44% vào năm 2004...).
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2005, các doanh nghiệp bảo hiểm đã huy động để đầu tư trở lại nền kinh tế với tổng số tiền ước đạt gần 4.200 tỷ đồng, nâng tổng số tiền đầu tư của toàn ngành bảo hiểm cho nền kinh tế lên trên 27.000 tỷ đồng. Công tác đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng được cải thiện và đi vào chiều sâu, đáp ứng các yêu cầu an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật.
Doanh thu từ hoạt động đầu tư trong 6 tháng đầu năm ước đạt trên 1.020 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động đầu tư tài chính ngày càng trở thành nguồn chủ yếu để hình thành lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, giá trị thực tế đầu tư của các công ty bảo hiểm vẫn thấp hơn so với tổng nguồn vốn có thể đầu tư từ quỹ dự phòng nghiệp vụ và vốn chủ sở hữu... “.
Nâng cao tính chuyên nghiệp của đầu tư
(Ông Lê Song Lai, Phó vụ trưởng Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính)
“Mặc dù các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam được phép đầu tư vào nhiều lĩnh vực, nhưng trên thực tế, danh mục đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn khá nghèo nàn và chủ yếu tập trung vào hình thức tiền gửi ngân hàng và trái phiếu Chính phủ.
Đương nhiên, với tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp và khá an toàn, nên hiệu quả đầu tư không cao là điều khó tránh khỏi. Trong suốt một thời gian dài, tại phần lớn các doanh nghiệp, hoạt động đầu tư không được tách riêng mà thường được giao cho bộ phận tài chính-kế toán thực hiện.
Nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm chưa có tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, hoạt động đầu tư chưa tập trung mà còn khá phân tán.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế như đã chỉ ra ở trên, qua đó, nâng cao hiệu quả, độ an toàn và chất lượng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm, theo tôi, cần có một số giải pháp sau:
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nhanh chóng phối hợp với các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... để xây dựng, sớm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định hướng dẫn về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
- Xoá bỏ những hạn chế mang tính phân biệt đối xử về đầu tư giữa doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước, đặc biệt là cho phép “doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam được áp dụng cơ chế chính sách về đầu tư như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước”.
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư bất động sản; nâng dần và đi tới xoá bỏ các hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước...
Cùng với đó là tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, đảm bảo các yêu cầu an toàn, hiệu quả. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm tra việc cho vay theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, tránh thất thoát tài sản...
Mặt khác, cần nghiên cứu để tiến tới áp dụng quy định về định giá danh mục đầu tư nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất lượng đầu tư với khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
Ngoài ra, cần sớm ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
Về phía các doanh nghiệp, cần nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư về tổ chức cũng như trình độ của đội ngũ cán bộ; sớm xây dựng đội ngũ các chuyên gia về đầu tư... Trước mắt, cần khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ tiêu chuẩn “thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý quỹ theo quy định của pháp luật” (trích Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Có luật, nhưng thiếu văn bản hướng dẫn
(Ông Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt
”Hiện nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm đã cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư nhưng thiếu văn bản hướng dẫn.
Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, việc đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được sử dụng vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư ở Việt Nam trong các lĩnh vực: mua trái phiếu Chính phủ; mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản; góp vốn vào các doanh nghiệp khác; cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong tổng số đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào nền kinh tế đạt 23.002 tỉ đồng có tới 20.032 tỉ đồng (chiếm 87,02%) là tiền gửi các tổ chức tín dụng và mua trái phiếu Chính phủ sinh lời thấp, 2.140 tỉ đồng (chiếm 9,3%) là kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua ngân hàng, còn lại 832 tỉ đồng (chiếm 3,62%) là mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.
Với cơ cấu đầu tư như trên thì có lãi nhưng còn thấp xa so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Điều này đã ảnh hưởng đến kinh doanh bảo hiểm, nhất là bảo hiểm nhân thọ.
Một số doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào bất động sản sau đó bán lại cho cán bộ công nhân viên chức của mình thì bị cơ quan có thẩm quyền cho là đầu tư không hợp pháp và không cấp sổ đỏ cho người mua. Một số khác đầu tư vào các doanh nghiệp, muốn đảm bảo an toàn đã yêu cầu doanh nghiệp này đăng ký tài sản đảm bảo nhưng cơ quan có thẩm quyền cho rằng chưa được hướng dẫn thực hiện vấn đề này.
Theo tôi, ngay từ bây giờ phải sớm đề ra khung pháp lý cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. Bộ Tài chính là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, trong đó có hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm cần chủ động trình Chính phủ hoặc chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan đề ra các văn bản hướng dẫn quản lý hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Trước hết, cần phải thống nhất quan điểm là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư từ vốn chủ sở hữu, quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm gắn bó mật thiết với nhau trong hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Vậy doanh nghiệp bảo hiểm bị chi phối bởi Luật kinh doanh bảo hiểm, chịu sự giám sát của Bộ Tài chính (cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp) hay bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản lý Nhà nước khác nếu như họ kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho vay...
Thứ hai là cần có văn bản hướng dẫn chi tiết cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động đầu tư về mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền ngân hàng, mua cổ phiếu trái phiếu doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua ngân hàng.
Các văn bản này phải đảm bảo tính rõ ràng minh bạch để doanh nghiệp biết mình được làm và phải làm những gì, các cơ quan quản lý Nhà nước dễ dàng kiểm tra giám sát và đỡ có sự chồng chéo, hiểu lầm của các cơ quan tài chính, chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, thuế vụ.
Thứ ba là tạo ra sự thông thoáng cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm khuyến khích đầu tư ngày càng nhiều vào nền kinh tế quốc dân và đây cũng là giải pháp tạo ra một kênh huy động vốn đầy tiềm năng của các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo được sự phấn khởi của người tham gia bảo hiểm ngày càng đông đảo (nhất là bảo hiểm nhân thọ). Điều này góp phần tạo ra nguồn vốn trung dài hạn vô cùng quan trọng trong xây dựng đất nước với mỗi năm tương đương với nguồn vốn FDI vào Việt
Theo chúng tôi tính toán, đến năm 2010 phí bảo hiểm thu được 40.000 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm lên tới trên 30.000 tỉ đồng, tương đương với 2 tỉ USD để đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ tư là cần cho phép những doanh nghiệp bảo hiểm lớn thành lập ngân hàng thương mại và các ngân hàng thương mại thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành tập đoàn tài chính mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới”.
Doanh nghiệp bảo hiểm khó đầu tư khi chưa được phép cho vay
(Ông Lưu Thanh Tâm, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Bảo hiểm Việt
”Theo quy định tại Khoản 2 Điều 98 Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày
Khoản 3 Điều 98 nêu rõ: “Chính phủ quy định cụ thể danh mục đầu tư thuộc các lĩnh vực quy định tại khoản 2 nói trên và tỷ lệ vốn nhàn rỗi được phép đầu tư vào mỗi danh mục đầu tư nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp bảo hiểm luôn duy trì được khả năng thanh toán”.
Điều 13 Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 về đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cũng có quy định: đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: Kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, theo Luật các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động cho vay phải là tổ chức tín dụng và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho vay nhưng hiện tại Chính phủ chưa có nghị định hướng dẫn về việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nên Ngân hàng Nhà nước chưa cấp giấy phép cho Bảo Việt và các doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Với tình trạng như vậy, việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng gặp phải không ít khó khăn. Như vậy khi thực hiện cho vay trực tiếp theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bảo Việt không thể hoàn tất các thủ tục bảo đảm nợ vay theo quy định, đây là một trong những rủi ro tiềm ẩn cho các khoản cho vay của Bảo Việt.
Với những khó khăn vướng mắc như trên, Bảo Việt xin kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện hoạt động cho vay theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Vì vậy, đề nghị Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản quy định về tỷ lệ tài sản rủi ro so với tổng tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm và hướng dẫn việc trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng để các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở thực hiện và có cơ chế để xử lý rủi ro khi rủi ro phát sinh”.
Cho vay là nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp bảo hiểm
(Ông Trịnh Quang Tuyến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia)
“Theo quy định tại Khoản 2 Điều 98 Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày
Khoản 3 Điều 98 nêu rõ “Chính phủ quy định cụ thể danh mục đầu tư thuộc các lĩnh vực quy định tại khoản 2 nói trên và tỷ lệ vốn nhàn rỗi được phép đầu tư vào mỗi danh mục đầu tư nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp bảo hiểm luôn duy trì được khả năng thanh toán”.
Điều 13 Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 về đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cũng có quy định: đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: Kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
Trong khi đó, theo Luật các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động cho vay phải là tổ chức tín dụng và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho vay nhưng hiện tại Chính phủ chưa có nghị định hướng dẫn về việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nên Ngân hàng Nhà nước chưa cấp giấy phép cho Bảo Việt và các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Với tình trạng như vậy việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng gặp phải không ít khó khăn.
Như vậy, khi thực hiện cho vay trực tiếp theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bảo Việt không thể hoàn tất các thủ tục bảo đảm nợ vay theo quy định, đây là một trong những rủi ro tiềm ẩn cho các khoản cho vay của Bảo Việt.
Với những khó khăn vướng mắc như trên, Bảo Việt xin kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện hoạt động cho vay theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Vì vậy, đề nghị Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản quy định về tỷ lệ tài sản rủi ro so với tổng tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm và hướng dẫn việc trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng để các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở thực hiện và có cơ chế để xử lý rủi ro khi rủi ro phát sinh”.
TBKTVN