Gói kích thích kinh tế tiếp theo nên như thế nào?
Ủy ban Tài chính - ngân sách chuẩn bị trình ra Quốc hội kết quả giám sát việc hỗ trợ lãi suất ngắn hạn trong gói kích cầu thứ nhất cũng như các đề xuất rút ra từ thực tế giám sát cho chương trình kích thích kinh tế tiếp theo, dự kiến sẽ được thực thi trong năm 2010. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Đinh Văn Nhã, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- ngân sách của Quốc hội.
Nhiều bộ ngành, các cơ quan giám sát kinh tế độc lập cho rằng nên dừng việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ trong gói kích cầu đầu tiên, đặc biệt là gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào? Nên tiếp tục hay nên dừng lại, chuyển sang các hình thức kích thích kinh tế khác?
Có hai luồng quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên dừng hẳn việc thực hiện kích thích kinh tế vì hiện nay đã có những biểu hiện liên quan cho thấy gói kích thích đã tạo ra áp lực lên chính sách tiền tệ và tài khóa. Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng nên lựa chọn một hình thức kích thích khác thông qua việc dừng các biện pháp hỗ trợ lãi suất ngắn hạn, tiếp tục các chính sách hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn. Quan điểm của tôi là nên dừng biện pháp hỗ trợ ngắn hạn, hỗ trợ vốn vay lưu động nhưng nên kéo dài các biện pháp hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn đến hết 30-6-2010.
Lý do: qua việc thực hiện giám sát vốn vay kích cầu ở các địa phương, tôi thấy yêu cầu của nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất vẫn muốn được hỗ trợ lãi suất ngắn hạn. Nhưng ở góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, vốn vay lưu động cho doanh nghiệp đến thời điểm này không có lợi như trước vì đây là nguồn vốn tín dụng ngắn hạn, tạo điều kiện kích thích sản xuất, tạo ra cung hàng hóa dồi dào nhưng sức mua của thị trường nội địa còn yếu, đầu ra xuất khẩu hẹp nên hàng tồn kho lớn.
Đặc biệt là tồn kho hàng xuất khẩu, sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản sản xuất ra chỉ dành cho cầu tiêu thụ này nếu tồn lớn sẽ gây hiệu ứng ngược trở lại cho doanh nghiệp, hộ sản xuất thay vì thuận lợi như ban đầu, khi vay được.
Nhưng tôi nghĩ nhu cầu vay vốn trung, dài hạn có thể kéo dài cho ngành nông nghiệp, nông thôn, các hợp tác xã vì các hộ sản xuất ở lĩnh vực này đã được vay, nếu được vay tiếp sẽ có điều kiện triển khai dứt điểm các dự án, chương trình đang dang dở một cách hiệu quả, có đầu ra cụ thể. Nếu dừng lại thì họ sẽ gặp khó khăn, dở dang, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro trong việc trả nợ cho các ngân hàng, có thể gia tăng nợ xấu. Ví dụ như số doanh nghiệp đã xây dựng dự án từ thời điểm 1-4-2009 đến nay mới xong, nếu dừng lại thì dự án của họ có thể bị xếp lại hoặc nếu có triển khai cũng dở dang. Do vậy nên tiếp tục tạo cơ hội cho họ.
Nhưng thưa ông, theo báo cáo của Bộ Công Thương gửi Thủ tướng Chính phủ về kết quả triển khai gói kích cầu thứ nhất thì dư nợ cho vay theo quyết định 497 (hỗ trợ lãi suất mua máy móc, phương tiện sản xuất trong nước phục vụ nông nghiệp, nông thôn) chỉ chiếm 0,21% trong tổng dư nợ. Với kết quả khiêm tốn như vậy mà vẫn tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất trung dài hạn cho nông nghiệp, nông thôn liệu có khả thi?
- Tỷ lệ dư nợ cho vay theo quyết định 497 thấp vì nhiều điều kiện để thực hiện gói kích cầu qua kênh này không phù hợp. Như danh mục máy móc được vay không phù hợp với yêu cầu của người nông dân về chủng loại, giá cả, xuất xứ. Yêu cầu được vay là máy móc phục vụ sản xuất phải có tỷ lệ nội địa hóa 40% nhưng ai là người xác định tỷ lệ đó?
Chất lượng máy móc trong nước sản xuất thấp, số lượng máy móc các doanh nghiệp sản xuất được lại quá ít nên không đáp ứng được yêu cầu của người nông dân. Qua báo cáo của lãnh đạo Cục quản lý hợp tác xã (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cả nước chỉ có 15 doanh nghiệp sản xuất máy nông nghiệp với quy mô sản xuất của nhiều doanh nghiệp trung bình chỉ …5 đến 6 máy/tháng thì không đáp ứng được nhu cầu.
Hơn nữa, quy định cho hợp tác xã vay vốn hỗ trợ lãi suất yêu cầu họ phải thế chấp tài sản song họ không có tài sản thế chấp hoặc đã thế chấp trước đó rồi.
Do vậy, hướng tháo gỡ nếu muốn tiếp tục thực hiện chính sách kích cầu cho nhóm đối tượng này là phải thay đổi danh mục hàng hóa được vay. Bộ Công Thương phải làm việc này. Các ngân hàng thì phải nới lỏng điều kiện cho vay, thay việc thế chấp tài sản bằng tín chấp. Chính quyền bảo lãnh cho các hợp tác xã, hộ nông dân vay vì điều kiện hỗ trợ lãi suất từ ngân sách thì cũng phải có hướng đi như thế. Việc thẩm định vốn này cũng không thể phó mặc hết cho cán bộ tín dụng các ngân hàng.
Trong đợt giám sát thực hiện kích cầu vừa qua, chúng tôi thấy mỗi cán bộ tín dụng ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) phải quản 2.000 khách hàng cá nhân. Như vậy thì không thể quản hết được, cũng không thể biết người vay có làm đúng mục đích, có hiệu quả vốn vay hay không mà cho vay.
Việc này nên giao về cho các tổ vay vốn ở các xã như mô hình mà Ngân hàng Chính sách xã hội áp dụng. Mỗi tổ vay vốn này có khoảng 50 hội viên, vừa nắm địa bàn chặt, vừa giải tỏa áp lực cho người vay lẫn người cho vay. Muốn thực hiện tiếp được cũng cần những văn bản hướng dẫn bổ sung, đơn giản hóa thủ tục cho vay thì các ngành sản xuất nông nghiệp, nông thôn và nông dân mới có đà phát triển được.
Bộ KH-ĐT đã trình lên Chính phủ dự kiến các kế hoạch cho gói kích thích kinh tế tiếp theo. Như việc không tiếp tục các chính sách miễn giảm thuế, chỉ giãn thời gian nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay giãn thuế nhập khẩu. Ông có cho rằng các biện pháp ở gói kích cầu thứ nhất và gói tiếp theo chưa thấy nổi bật đường đi nhằm nhân cơ hội tái cơ cấu kinh tế?
Vấn đề là phải “bắt mạch” tình hình trong và ngoài nước cho phù hợp với việc thay đổi chính sách. Tình hình từ nay đến cuối năm, diễn biến phục hồi kinh tế thế nào sẽ quyết hướng ra chính sách thế đó. Theo tôi, năm 2010 nếu kinh tế trong nước phục hồi tốt thì chính sách tiền tệ phải thắt chặt hơn năm nay nhưng cũng cần có độ lỏng nhất định để tiếp tục phục hồi ổn định. Ví dụ như “lỏng" thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất theo diện hẹp, để phục hồi sẽ tốt hơn nữa. Hay nói khác đi là chính sách tiền tệ “vừa chặt vừa lỏng”.
Về chính sách tài khóa, năm 2010 cũng phải nới lỏng có thận trọng. Dừng hoàn toàn các chính sách giảm thuế ngay thì khó cho doanh nghiệp. Nên giảm có mức độ và có thời gian giãn thuế thêm 6 tháng. Mức giãn 3 tháng quá ngắn. Việc giảm thuế nên thực hiện ở diện hẹp hơn. Có thể giảm 30% loại thuế này cho đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặt khác cũng có thể giảm thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp sản xuất để hạ giá thành, kích sức mua thị trường nội địa. Chính sách tài khóa như vậy có thể là điều chỉnh có liều lượng, giúp doanh nghiệp có cơ hội tích lũy, tăng đầu tư, củng cố sản xuất, phục hồi kinh tế mới tính đến các biện pháp tái cơ cấu được.
Ngọc Lan
TBKTSG Online