GS.TS Hồ Đức Hùng: "Nên chú trọng gói kích cầu trực tiếp"
Là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế phát triển thuộc Đại học Kinh tế TPHCM, GS.TS Hồ Đức Hùng thường đưa ra những ý kiến phản biện cho những chính sách vĩ mô và vi mô.
Một số dự báo của ông khá chính xác, giúp điều chỉnh những lỗ hổng trong quản lý của doanh nghiệp (DN). Ngoài công việc giảng dạy, ông còn tham gia đào tạo đội ngũ CEO (GĐ điều hành) VN, cùng êkíp tham gia chương trình "Lãnh đạo doanh nghiệp" trên HTV4 (Đài truyền hình TPHCM) hàng tuần.
Nhiều chuyên gia cho rằng, đừng quá trông mong vào gói kích cầu, vì chính sách thì đúng, nhưng phản ứng của người tiêu dùng có thể rất khác so với tính toán của các nhà làm chính sách. Ông nghĩ sao về điều này?
- Kích cầu (đúng hơn là gói kích thích kinh tế) về nguyên lý có 2 loại: Kích cầu tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp (qua đầu tư và sản xuất). Trước hết, phải tính đến hiệu quả của nó về mặt trước mắt và lâu dài. Vậy phải biết phần nào mang tính chất trực tiếp để thúc đẩy sự lây lan những sản xuất gián tiếp về sau.
Trong giai đoạn này, Thái Lan và Trung Quốc cũng đưa ra những gói kích cầu, nhưng cách thức khác nhau. Thái Lan mạnh về gói trực tiếp, vì đây là quan điểm kích thích tiêu dùng. Trong điều kiện hiện nay kích về tiêu dùng của VN còn chưa đủ liều lượng, nhiều mặt hàng bị ứ đọng, những mặt hàng xuất khẩu trì trệ bắt đầu dồn lại thị trường trong nước. Việc kích cầu trực tiếp tiêu thụ là cần thiết để tiếp tục đẩy sản xuất lên.
Ví dụ, kích ngay những thành phần chịu sự giảm sút về thu nhập, đang gặp khó khăn trong cuộc sống như những người nghèo, công nhân, học sinh, sinh viên, viên chức... Thái Lan hỗ trợ cho người dân thu nhập thấp (dưới 15.000 baht/tháng- khoảng 420USD) mỗi người số tiền 2.000 baht. Thêm vào đó, các DN phải thực hiện các biện pháp khuyến mãi. Nhà nước khuyến khích DN một phần, như giảm thuế cho DN.
Nên nhớ là giảm thuế chứ không phải là giãn thuế, vì nếu chỉ giãn thuế thì người ta vẫn còn chịu sức ép tâm lý rồi đây sẽ phải trả nợ. Như vậy, có thể thấy gói kích cầu của ta không triệt để.
Vấn đề thứ hai, là kích cầu của ta có phần đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Đó cũng là điều cần thiết vì kích thích lây lan đến các ngành nghề, lĩnh vực khác. Nhưng cũng nên cân nhắc, vì đầu tư cơ sở hạ tầng của ta thời gian vừa qua cũng có nhiều vấn đề như lãng phí, tiêu cực cộng với tham nhũng. Đầu tư hơi tràn lan, đặc biệt là đầu tư công quá nhiều mà kém hiệu quả. Chúng ta không phải cắt đầu tư công, mà nên mạnh dạn giảm đầu tư công. Đặc biệt là những dự án không hiệu quả.
Trên thực tế, trong năm nhóm giải pháp, gói đảm bảo an sinh xã hội còn chưa thật sự được chú trọng. Và nhiều người lo ngại ít DN vừa và nhỏ được nhận hỗ trợ về vốn.
- Thì như đã nói, chính đó cũng là gói kích thích trực tiếp: Vấn đề an sinh xã hội, vấn đề giải quyết thất nghiệp, vấn đề thu nhập cho người nghèo. Còn kích thích sản xuất thì cần chú ý đến kinh tế tư nhân. Chúng tôi luôn nhấn mạnh điểm này. Nhưng ở đây nảy sinh nhiều vấn đề là DN nào được chọn. Thế nên phải có cơ chế để giảm tiêu cực trong việc chọn DN để hỗ trợ về lãi suất, vốn, tín dụng.
Thứ ba cực kỳ quan trọng là thị trường. Thị trường nông thôn hoàn toàn bỏ ngỏ. Trong khi danh chính ngôn thuận, thị trường này chiếm 70%.
Dường như vấn đề mấu chốt vẫn chưa được giải quyết, đó là tình trạng neo giữ đồng tiền Việt quá lâu, có đúng vậy không, thưa ông?
- Có khi phải có những đột phá về phá giá, dám chấp nhận rủi ro lớn. Thực ra, những tiềm ẩn về lạm phát xuất phát từ nền kinh tế của ta không được khoẻ: Nhập vẫn là nhập siêu.
Thứ hai, là thu chi ngân sách vẫn là chi quá lớn so với thu.
Thứ ba, năng suất cạnh tranh kém.
Thứ tư, đầu tư công chiếm tỉ trọng rất lớn nhưng hiệu quả thấp. Hệ số ICOR quá lớn so với các nước trong khu vực.
Thứ năm, FDI của ta trong thời gian qua có thể nói đạt kỷ lục về mức thu hút, nhưng hiệu quả chưa cao, đại bộ phận vẫn còn đầu tư ở những ngành nghề lĩnh vực thương mại dịch vụ, bất động sản, chứng khoán là chính, trong khi đầu tư vô sản xuất thì rất ít: Vô công nghiệp, chỉ 10%, vô nông nghiệp chỉ 0,1%. Chưa nói FDI vào những lĩnh vực mà mình phải trả giá sau này: FDI vô sân golf, vô lĩnh vực ô nhiễm môi trường nặng, trong khi việc giải quyết ô nhiễm môi trường hiện nay vẫn lúng túng.
Phải giải quyết bài toán này về mặt vĩ mô mới triệt để được. Cho nên, các giải pháp hiện nay là một mặt làm thế nào thúc đẩy gia tăng kích cầu, nhưng mặt khác, phải kiềm chế lạm phát nặng. Muốn thúc đẩy gia tăng kích cầu, kiềm chế lạm phát mạnh, thì kích cầu đúng để vừa mang tác dụng trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài. Vậy những gì là trước mắt thì tôi nghĩ phải nên kích cầu trực tiếp.
Phải chăng, yếu tố nhân sinh vẫn chưa được coi trọng trong chính sách này?
- Theo tôi nghĩ, vẫn còn quan niệm truyền thống dựa trên cơ sở phát triển sản xuất để cải thiện đời sống. Quan niệm đó không có gì sai cả, nhưng trong quá trình thực hiện chỉ đúng trong từng thời kỳ. Phải có những lúc trên cơ sở cải thiện đời sống mới thúc đẩy được sản xuất. Lúc này là lúc nên cải thiện đời sống. Dùng cầu để kích cung vì cung hiện nay ứ đọng, đầu tư không hiệu quả.
Vậy theo ông, bước tiếp theo cần thiết phải làm gì?
- Các giải pháp liên quan là nhìn lại cơ chế quản lý đầu tư công, xem lại biện pháp về thị trường, đặc biệt biện pháp thúc đẩy thị trường hàng tiêu dùng, thúc đẩy thị trường nông thôn. Cần xem lại các giải pháp về xuất khẩu để giúp hàng xuất khẩu quay trở lại thị trường nội địa trong thời điểm khó khăn này, chuyển đổi thị trường, chuyển đổi mặt hàng, đặc biệt, mấy thị trường hấp dẫn đang bị khủng hoảng, thì phải tìm đường ra.
Những DN mà ta cho vốn, vẫn thiếu điều cốt lõi là thị trường tiêu thụ, nên hỗ trợ cả mặt này. Như thế, họ mới mạnh dạn đầu tư, chứ ra hàng rồi mà không có thị trường thì làm sao đây. Đó là những giải pháp đồng bộ.
Từ trong nguy cơ luôn có cơ hội tiềm ẩn. Lấy ví dụ từ sự sụp đổ của các chaebol ở Hàn Quốc vào năm 1999, nước này đã có cải tổ chính sách và vực dậy nền kinh tế. Còn ở ta là cơ hội gì, theo ông?
- Bài học của HQ và Thái Lan vẫn còn tiềm ẩn ở các tập đoàn. Việc hình thành các tập đoàn là một điều cần thiết để tạo ra quả đấm mạnh cho nền kinh tế. Nhưng mối nguy là cơ chế quản lý tập đoàn nếu không thể hiện qua luật pháp và hệ thống theo rõi đầy đủ thì sẽ là nơi phục vụ các nhóm lợi ích. Chính đó gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế vĩ mô.
Còn ngay trong thời suy thoái vẫn có cơ hội: Cơ hội về đầu tư, về chuyển hướng kinh doanh, cơ hội để tạo lập thị trường, phát triển sản phẩm mới cho hậu suy thoái. Và thậm chí có thể có cơ hội giải quyết ngay những vấn đề liên quan đến nhân sự, đặc biệt tổ chức đào tạo huấn luyện ngay trong thời kỳ này, thay vì thời kỳ trước bận rộn. Nghĩa là chúng ta vẫn có thể đầu tư về con người để chuẩn bị cho cơ hội tới.
Vậy chính sách thời hậu suy thoái sẽ phải như thế nào để vực dậy nền kinh tế, trên cơ sở thấy được những yếu kém nội tại?
- Những giải pháp đó tuỳ thuộc rất lớn vào các giải pháp hiện nay. Tôi nghĩ, nếu chúng ta thực hiện gói kích cầu một cách đầy đủ, đúng địa chỉ, có khả năng thực hiện và triệt để thì sẽ kích thích nền kinh tế vào cuối năm 2009 sẽ hồi phục. Và yếu kém nội tại vẫn chính là điều hành kinh tế vĩ mô.
Mà quản lý vĩ mô thì có mấy vấn đề lớn như sau: Một là cơ chế về quản lý đầu tư công. Thứ hai là chính sách về mặt tài chính và tài khoá (tức là những vấn đề có liên quan đến ngân sách). Thứ ba là chính sách về lãi suất và tỉ giá hối đoái. Lãi suất và tỉ giá hối đoái phải linh hoạt, chắc chắn không thể thắt chặt như trước đây và dần cũng phải có mở rộng, điều chỉnh phải linh hoạt kịp thời qua thời gian.
Trong cuộc hội thảo mới đây, ông có cho rằng trình độ của CEO VN rất đáng ngại, trong đó có 43% trình độ chỉ từ PTTH trở xuống. Hơn thế nữa, một trong những đặc điểm của DN VN là thiếu vốn, thiếu đoàn kết, hỗ trợ và thiếu tính cộng đồng. Vậy đó có phải là nguyên nhân vì sao ta chưa có được thương hiệu quốc gia được quốc tế công nhận?
- Phải có nhận thức, phải có sự hiểu biết về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu. Và thường có suy nghĩ xây dựng thương hiệu phải có một chi phí lớn. Thật ra không phải chi phí lớn, vấn đề là anh phải chi phí hiệu quả để phát triển được thương hiệu. Nhưng giá trị thương hiệu cốt lõi vẫn là thực chất của sản phẩm phải tốt. Mình có xây dựng thương hiệu tốn kém mấy đi chăng nữa mà chất lượng sản phẩm thua sản phẩm của nước ngoài thì làm sao có được thương hiệu VN mạnh?
Việc xây dựng thương hiệu VN mạnh thì ít ra phải dựa trên cơ sở để khách hàng đánh giá chất lượng sản phẩm của anh tương đương nước ngoài. Và nếu tương đương thì mình mới hô khẩu hiệu Người Việt dùng hàng Việt được. Chất lượng kém mà phải yêu hàng nội thì coi bộ hơi khó, xét về mặt lâu dài.
Tính cộng đồng mình phải nói là thiếu hụt. Làm thế nào chúng ta có được văn hoá như người Hoa là phải biết hỗ trợ giúp đỡ nhau thực sự, cùng chia sẻ khó khăn với nhau. Hình như các thương hiệu mạnh chỉ lo cho họ, ít khi nào hỗ trợ cho DN nhỏ. Cho nên khó xây dựng được thương hiệu quốc gia. Khối cộng đồng, đoàn kết thực sự thì ít, hiệp hội chỉ có tính chất hình thức thì nhiều.
Cuộc đời ông theo đuổi điều gì?
- Có lẽ vẫn là hạnh phúc. Mà hạnh phúc là chấp nhận những gì mình có, hài lòng với những gì mình đạt được và với một ít tham vọng để đạt được hạnh phúc cao hơn.
- Xin cảm ơn ông.
GS.TS Hồ Đức Hùng từng tu nghiệp ở các nước Pháp, Canada và là giáo sư thỉnh giảng Đại học Toulouse 1 (Pháp).
Năm 2003, ông được phong tặng chức danh Giáo sư. Lĩnh vực giảng dạy của ông là marketing sản xuất và dịch vụ; chiến lược và chính sách kinh doanh.
Ông cũng là chuyên gia hàng đầu trong việc tư vấn, thiết kế chương trình, kế hoạch kinh doanh dài hạn và ngắn hạn; tư vấn quản lý và điều hành doanh nghiệp; thiết kế các chương trình đào tạo, huấn luyện đội ngũ giám đốc điều hành, trưởng bộ phận/đơn vị/chức năng.
Nhật Lệ
Lao Động