Tin tức
Khủng hoảng kinh tế: Tình hình khác, giải pháp khác

Khủng hoảng kinh tế: Tình hình khác, giải pháp khác

06/11/2008

Banner PHS

Khủng hoảng kinh tế: Tình hình khác, giải pháp khác

Khủng hoảng ở Mỹ là do mất khả năng chi trả và rồi thiếu thanh khoản trong toàn hệ thống gây ra bởi việc nhà đất xuống giá và việc mất niềm tin của doanh nghiệp và dân chúng vào hệ thống tài chính. Cục Dự trữ liên bang đã phải tung tiền cho hệ thống để tạo thanh khoản.

Chỉ riêng tháng 10-2008, tiền mặt tăng lên 126%. Tốc độ tăng này rất cao so với tốc độ tăng dưới 5% những năm trước đây ( xem bảng Cung tiền ở Mỹ). Lạm phát những năm trước đây cũng không hơn 3% là điều dễ hiểu.Câu hỏi đặt ra là liệu việc tăng tiền mặt dữ dội như vậy có thể đưa đến lạm phát cao sắp tới không? Dù chưa có số liệu về cung tiền M1 và M2, mức tăng M1 và M2 còn tùy thuộc vào nguồn tín dụng mà hệ thống ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế, nhưng dù M1 và M2 tăng mạnh như tiền mặt thì trước mắt cũng khó tạo ra lạm phát.

Tại sao lại như thế? Các lý thuyết tiền tệ, dù khác nhau về quan điểm, cũng dựa vào mối liên hệ chính sau, là MV = PT. Trong đó M là lượng cung tiền, V là vòng quay, P là giá và T là sản lượng (thí dụ GDP).

Cung tiền ở Mỹ(đơn vị tính: tỉ đô la)

-

Tiền mặt

M1

M2

Tháng 12-2006

749

1.367

7.036

Tháng 12-2007

759

1.364

7.447

Tháng 9-2008

796

1.454

7.769

Tháng 10-2008

1.800

-

-

Tốc độ tăng 2007 (tháng 12–tháng 12)

1,3%

-0,2%

5,9%

Tốc độ tăng 2008 (tháng 9–tháng 9)

4,9%

6,6%

4,3%

Tốc độ tăng trong tháng 10

126%

-

-

Chú thích: M1: Tiền mặt, tài khoản vãng lai; M2: M1 cộng tài khoản tiết kiệm,tiền gửi có kỳ hạn dưới 100.000 đô la. Nguồn: Cục Dự trữ liên bang Mỹ; số liệu tháng 10 là từ Wall Street Journal ngày 30-10-2008.

Hiện nay ở Mỹ do niềm tin giảm, đối tác làm ăn không tin vào khả năng chi trả của nhau để sẵn sàng cho vay hoặc bán hàng qua tín dụng ngắn hạn, tạo ra tình trạng thiếu thanh khoản, trao đổi hàng hóa bằng tiền tệ giảm hẳn vì thiếu thanh khoản, do đó vòng quay đồng tiền giảm mạnh, vì thiếu tiền. Tiền (M) có tăng rất nhiều cũng không thể tăng giá. Tuy nhiên, khi tình hình ổn định trở lại thì nếu Cục Dự trữ liên bang không tìm cách hút lượng tiền trên ra khỏi thị trường thì tất nhiên lạm phát sẽ xảy ra.

Còn Việt Nam thì sao?

Từ sau sự thành công của cuộc cải cách kinh tế và chống lạm phát bắt đầu vào cuối năm 1998 trở đi, niềm tin vào sự phồn thịnh của nền kinh tế tăng và do đó kỳ vọng lạm phát giảm, dân chúng và doanh nghiệp sẵn sàng giữ đồng tiền, trao đổi bằng đồng tiền thay vì tiêu đi cho nhanh. Việc sử dụng rộng rãi đồng tiền trong nền kinh tế như thế có thể gọi là nền kinh tế được tiền tệ hóa hơn. Điều này phản ánh qua việc giảm mạnh vòng quay đồng tiền (xem bảng Vòng quay đồng tiền), ít nhất là cho đến tháng 11-2007. Việc giảm vòng quay đồng tiền ở Mỹ và Việt Nam có nguyên nhân trái ngược hẳn nhau.

Vòng quay đồng tiền và tốc độ tăng giá tiêu dùng ở Việt Nam

-

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Vòng quay

3,53

2,80

1,98

1,72

1,63

1,49

1,34

1,22

1,06

0,85

CPI

7,8

4,2

-1,6

-0,4

4,0

3,2

7,8

8,4

7,4

8,3

Nguồn: Key Indicators for Asia and the Pacific 2008, Asian Development Bank

Chính vì thế mà trong nhiều năm qua, dù cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh, lạm phát có tăng mạnh hơn kể từ năm 2004 đến nay, nhưng vẫn dưới 10%. Như đã nói, vấn đề của Việt Nam hiện nay có thể đã khác. Lạm phát nhảy vọt kể từ tháng 11-2007 cho đến tháng 9-2008, tất nhiên là do tốc độ tăng cung tiền quá mức bình thường, ở mức 46% so với trước đây, một phần là do chính sách đẩy mạnh tín dụng cho tập đoàn tưởng là để chớp thời cơ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, một phần là do không sửa soạn đối phó với sự đổ bộ của nguồn tiền nước ngoài vào để mua chứng khoán ở Việt Nam, làm tăng mạnh cung tiền ở thời điểm cuối năm 2007 và đầu năm 2008.

Để có chính sách phù hợp, cần hiểu điều gì đã xảy ra với vòng quay đồng tiền. Trong nhiều năm qua, chính chính sách thả lỏng tiền tệ và tín dụng nhằm đạt tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra lạm phát cao. Giá phải trả khá lớn. Đó là sự ổn định của nền kinh tế và mức sống của người nghèo, những người sống dựa vào đồng lương. Do đó không thể vì lý do nào đó lại không cảnh giác với các biện pháp bơm tín dụng kích cầu chỉ lợi cho một số người.

Tốc độ tăng giá ở mức 10% một năm là không thể chấp nhận được, nhất là trong thời gian tới giảm phát sẽ là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Vì lý do này, tốc độ phát hành tiền không nên hơn 20% một năm, dựa vào kinh nghiệm những năm qua. Tuy vậy, việc phát hành thêm tiền ở mức nào là nhiệm vụ cần giao cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với mục tiêu chiến lược là giữ cho lạm phát không hơn 5% một năm. Vai trò của NHNN không phải là nhằm phục vụ mục tiêu đạt tốc độ tăng GDP cao hay phục vụ tập đoàn mà là ổn định giá cả.

Lao động trong doanh nghiệp (1.000 người)

-

2000

2003

2004

2005

2006

Lao động trong doanh nghiệp

3.537

3.933

5.771

6.237

6.722

Doanh nghiệp nhà nước

2.089

2.114

2.250

2.038

1.907

Doanh nghiệp tư nhân

1.041

1.330

2.475

2.979

3.370

Doanh nghiệp có vốn nước ngoài

408

489

1.045

1.221

1.445

Nguồn: CIEM

Trong việc quyết định tăng tiền và tín dụng ở mức nào, NHNN cần theo sát tình hình thực tế. Nếu vòng quay tăng vì tâm lý lạm phát đã bám rễ, thì việc đẩy tiền, và tín dụng ra nhanh sẽ đẩy mạnh lạm phát. Vòng quay thường tăng khi dân chúng không muốn giữ tiền trong ngân hàng, vì thấy thiệt hại, và vì thế sẵn sàng chi ngay để mua vật phẩm lâu bền nhằm bảo vệ giá trị tài sản, chống lại lạm phát. Điều này hình như chưa xảy ra hiện nay.

Nếu vòng quay đồng tiền giảm như ở Mỹ thì việc tăng thanh khoản sẽ không đẩy mạnh lạm phát. Đây là điều cần tìm hiểu nhưng chỉ có NHNN là người nắm số liệu mới có thể đánh giá được để từ đó có giải pháp phù hợp.

Tất nhiên, ở Mỹ việc tăng thanh khoản sẽ dẫn đến thay đổi lãi suất. Còn ở Việt Nam thì chúng có thể không liên hệ với nhau nhiều. Lãi suất có cao cũng không ảnh hưởng đến vay mượn, miễn là ngân hàng quốc doanh sẵn sàng cho vay vì lỗ là trách nhiệm của Nhà nước.

Ngược lại, lãi suất ảnh hưởng rất mạnh đến khu vực tư nhân, cho nên nếu điều kiện như cần được phân tích ở trên cho phép, cần phải giảm lãi suất cho khu vực này. Đây là khu vực đang tạo ra việc làm đáng kể cho dân chúng, còn khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn là khu vực không tạo ra việc làm đáng kể và từ năm 2004 số lao động ở đây lại giảm (xem bảng Lao động trong doanh nghiệp). Thêm nữa, do tình hình thiếu thanh khoản hiện nay trên thế giới, các nhà nhập khẩu nước ngoài không có khả năng trả ngay các nhà xuất khẩu Việt Nam. Tín dụng để giúp những người sản xuất xuất khẩu lúc này cũng là điều cần thiết, và nếu cần Nhà nước có thể bảo trợ số tín dụng này.

Lãi suất và thanh khoản cấp cho tập đoàn và các công ty mà Nhà nước ưu đãi như đã nói, độc lập với những gì xảy ra trên thị trường, vì chúng dựa vào quyết định chính trị. Thí dụ như chỉ đạo của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (số 264/TB-VPCP) về việc cấp vốn cho Vinashin như sau: “Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ đạo Ngân hàng Phát triển và các ngân hàng thương mại thực hiện tốt các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, tuy nhiên, cần điều hành tín dụng linh hoạt cho một số dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp tàu thủy”.

Chỉ đạo trên cũng đồng ý với đề nghị của Vinashin là sẽ xem xét “đề xuất phương án điều chỉnh, bổ sung vốn điều lệ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”. Quyết định sau hình như là nhằm giải quyết việc số vốn nước ngoài Nhà nước vay cho Vinashin, mà đáng ra phải là vốn Vinashin vay, do đó phải trả lãi, và cũng từ đó mà vốn tự có của Vinashin không gồm phần vay này. Nhưng Vinashin đã có yêu cầu coi đó là đóng góp vào vốn điều lệ của Nhà nước, nếu thế thì việc trả lãi phải từ ngân sách của Chính phủ, và lãi của Vinashin sẽ to ra.

Vũ Quang Việt (New York)

TBKTSG

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng