Nhà đầu tư ngoại khó 'xơi' cổ phần ngân hàng quốc doanh
Quy định nhà nước nắm giữ 80% cổ phần ngân hàng thương mại quốc doanh khiến nhiều tập đoàn tài chính danh tiếng "chờn" khi dốc hầu bao. Trao đổi với VnExpress, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Ngân sách Quốc hội Dương Thu Hương cho biết Chính phủ được toàn quyền quyết định vấn đề này.
- Quyết định cổ phần hóa toàn bộ các ngân hàng thương mại quốc doanh được rất nhiều nhà đầu tư ngoại quan tâm. Bà nghĩ sao khi họ e ngại vì tỷ lệ sở hữu nhà nước lên tới 80%?
- Khái niệm cổ phần hóa ngân hàng thương mại quốc doanh mới xuất hiện trong vài năm gần đây, chứ vào những năm 2000 gần như không ai dám đề cập đến vì đó là lĩnh vực rất nhạy cảm.
Tôi nhớ hồi còn làm Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, khi làm việc với Tổ chức Tiền tệ quốc tế (IMF) họ có yêu cầu VN phải cổ phần hóa một ngân hàng thương mại quốc gia, Chính phủ rất quyết tâm mới đưa ra quyết định cổ phần hóa Ngân hàng Nhà ĐBSCL. Trong 5 năm, có thêm chủ trương cổ phần hóa thêm Ngân hàng Ngoại thương VN rồi cổ phần hóa toàn bộ ngân hàng thương mại quốc doanh như. Điều này cho thấy Chính phủ đã rất mạnh dạn.
Ngân hàng thương mại nhà nước là tổ chức kinh tế đóng vai trò quan trọng, đó là công cụ giúp Nhà nước điều hành kinh tế vĩ mô, do đó tỷ lệ cổ phần thuộc sở hữu nhà nước phải lớn. Nếu cho phép nhà đầu tư nước ngoài chiếm 49% thì dù nhà nước có giữ 51% thì cũng khó chỉ đạo. Tôi cho rằng bước đầu đưa ra tỷ lệ 20% là hợp lý.
- Nhiều chuyên gia cho rằng nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ có nhiều cái lợi. Bà thấy sao?
- Tất nhiên nhà đầu tư nước ngoài vào có thể đem lại những bước tiến trong quản trị điều hành và tăng năng lực tài chính nhưng đó không phải là các yếu tố quyết định.
Khi xem xét Luật Chứng khoán, nhiều đại biểu quốc hội muốn đưa tỷ lệ cổ phần tối đa nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ vào luật, nhưng làm như vậy thì nó cứng quá. Trong 2 năm tới, cả nước đẩy mạnh cổ phần hóa nhưng mục tiêu vẫn phải giữ vai trò chủ đạo của nhà nước, đấy là chưa kể đến những vấn đề liên quan đến cam kết hội nhập. Vì thế, mức độ cụ thể bao nhiêu, Quốc hội thống nhất giao cho Chính phủ tính toán và quy định.
- Như vậy đối với lĩnh vực ngân hàng, mục tiêu cổ phần hóa không phải là đổi mới quản trị và tăng năng lực tài chính?
- Không cần tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài nhiều mới thay đổi được quản trị điều hành. Lấy ví dụ, quản trị của Ngân hàng Ngoại thương hiện được đánh giá ngang tầm khu vực, hệ số an toàn vốn của họ tính đến tháng 2/2006 đạt 12%, trong khi quốc tế yêu cầu 8%. Tôi tin các ngân hàng sẽ tự biến đổi họ theo chuẩn mực quốc tế khi muốn cạnh tranh trong một sân chơi lớn. Ngay như Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn cũng đang thay đổi, chứ không thể úi xùi như xưa nữa.
- Với các nước trong khu vực, họ có đưa ra tỷ lệ sở hữu của nhà nước trong các ngân hàng cao vậy không?
- Ở các nước như Thái Lan, Hàn Quốc họ không có ngân hàng quốc doanh. Nếu một ngân hàng nào đó rơi vào tình trạng nguy ngập, Chính phủ hỗ trợ nó bằng cách phát hành trái phiếu huy động vốn rồi lấy tiền đó hỗ trợ cho ngân hàng, khi nó phát triển rồi thì lấy lại khoản tiền hỗ trợ đó.
Cũng có khi họ can thiệp bằng cách bán toàn bộ cho nước ngoài, khi ngân hàng được vực lên rồi thì chính phủ mua lại toàn bộ.
Nhưng ở VN, như tôi đã nói ngân hàng không phải là công cụ kinh doanh đơn thuần mà còn có nhiệm vụ thực hiện các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô. Vì thế, quyết định tỷ lệ nhà nước nắm giữ bao nhiêu được tính toán rất kỹ.
VnE