Tin tức
Nợ công trong tầm kiểm soát?

Nợ công trong tầm kiểm soát?

03/08/2011

Banner PHS

Nợ công trong tầm kiểm soát?

Theo World Factbook, nợ công của VN năm 2010 xếp vị trí 44/ 129 quốc gia có nợ công lớn nhất thế giới, đạt mức 56, 7% GDP. Và với thực trạng tỷ lệ tiết kiệm nội địa khoảng 27% trong khi mức đầu tư an toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP, Chính phủ sẽ phải vay thêm nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt ngân sách, thì tốc độ gia tăng nợ công tại VN trong năm 2011 sẽ khó chậm lại.

Dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh từ 2005-2009 (Nguồn: Bản tin Nợ nước ngoài số 6 –BTC)

Vào ngày 4/8, phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII sẽ thảo luận các báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011, các giải pháp cho 6 tháng cuối năm 2011, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2009. Theo đó, vấn đề nợ quốc gia sẽ lại được đặt lên bàn thảo luận với những con số báo cáo, và có thể có chênh lệch khi không thể cập nhật được hết mọi khoản nợ chính phủ, mọi khoản “nợ ngầm” do DN vay được Chính phủ bảo lãnh, bởi phương cách tính toán và dữ liệu để đưa vào tính toán sẽ còn phụ thuộc vào khái niệm về nợ công, mặc dù Luật quản lý nợ công VN đã được ban hành từ năm 2009.

An toàn hay vượt ngưỡng?

Một bản tin trên cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính ngày 8/7 cho biết tính đến 31/12/2010, tổng số dư nợ công năm 2010 của VN ở mức 1.122 ngàn tỉ đồng, tương đương 56,7% GDP; còn năm 2011, dự kiến con số này sẽ đạt đến 1.375 ngàn tỉ, bằng khoảng 58,7% GDP. Trong đó, tổng số dư nợ nước ngoài ở mức 835.000 tỉ đồng, bằng 42,2% GDP năm 2010 và dự kiến nợ nước ngoài sẽ ở mức 44,5% GDP năm 2011.

Tuy nhiên, dư nợ này chỉ gồm khoản nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh, không gồm nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ, trong đó có các DN nhà nước. Và dĩ nhiên loại trừ các khoản nợ của DN vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh, mà nếu xét tổng nợ nước ngoài của một quốc gia, thì các khoản nợ này vẫn phải tính đủ.

Vận dụng định nghĩa của Luật quản lý nợ công VN, theo đó, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương, thì giữa con số mà Bộ Tài chính đưa ra và nợ công thực tế, có sự chênh lệch khoảng 10 phần trăm, và rất có khả năng nợ công VN năm 2011 sẽ trên dưới 70% GDP. Bởi trong khoảng thời gian 3 năm, riêng năm 2008, theo Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, TCty nhà nước đã lên tới 287.000 tỉ đồng (hay 20% GDP năm 2008), chưa kể con số chênh lệch trong các khoản nợ đã báo cáo. Năm 2009, theo số liệu của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài của VN là 27, 929 tỷ USD. Còn tính đến giữa năm 2010, nợ nước ngoài cộng thêm 1 tỉ USD, bằng 29 tỉ USD, quy đổi tỉ giá cùng thời kỳ khoảng 537.800 tỉ đồng (GDP năm 2010 của VN khoảng 104 nghỉn tỉ đồng). Trung bình mỗi năm, nợ công đã duy trì mức tăng 4-7%/ năm và khi lạm phát tăng cao, mức tăng này lại càng khó dừng lại.

Một số tổ chức trong và ngoài nước cũng như nhiều chuyên gia cho rằng với mức tăng “đều đặn” như vậy, tương ứng với nguồn thu ngân sách hiện nay, thì khả năng trả nợ công vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nếu căn cứ theo Quyết định số 211/2004/QĐ-TTg ngày 14/12/2004 của Thủ tướng phê duyệt định hướng phát triển tài chính VN đến năm 2020, trong đó xác định rõ mức trần nợ công là 50% GDP, cũng là chuẩn an toàn theo thông lệ quốc tế, thì quy mô nợ công mà Bộ Tài chính ước tính, hay quy mô nợ công thực tế, đều đã vượt ngưỡng an toàn.

Cơ cấu nợ và rủi ro tỉ giá

Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể điều chỉnh, hay quản lý nợ công như thế nào để tránh những rủi ro có thể xảy đến? Nếu nhìn vấn đề này ở khía cạnh bao quát, thì câu trả lời thuộc về bản chất nợ công của từng quốc gia, bởi mỗi quốc gia có cơ cấu nợ và các tiêu chí nợ, cũng như các rủi ro nợ, khác nhau. Với Nhật Bản, dù nợ công có quy mô lên tới trên 200% GDP, nhưng sự vượt ngưỡng này vẫn không làm khó nền kinh tế, do phần lớn các chủ nợ là nhà đầu tư trong nước và Nhật vẫn ở ngoài tầm công kích của giới đầu cơ. Trong khi đó, với nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ, quy mô nợ công thấp hơn Nhật, hơn Hy Lạp, nhưng lại đang phải loay hoay xử lý nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật, là do các vấn đề nội tại của cơ cấu chính trị, song hành cùng các vấn đề thuộc cơ cấu nợ.

Với VN, chúng ta không có may mắn như Nhật Bản, bởi nếu xét về cơ cấu, nợ công nước ta đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro mà nếu không sớm điều chỉnh, thì tai họa sẽ rất khó lường. Một trong những vấn đề là nợ công VN đang quá lệ thuộc vào nguồn cho vay nước ngoài. Trong cơ cấu nợ công hiện nay, nợ Chính phủ chiếm hơn ¾, riêng các khoản nợ ODA đã chiếm tới 74% nợ công.

Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2010, khoản tiền để chi trả nợ là 80.250 tỉ đồng, tăng hơn 14% so với dự toán ban đầu là 70.250 tỉ đồng. Ủy ban Tài chính Ngân sách đã lý giải nguyên nhân khoản tăng này là từ biến động tỉ giá ngoại tệ và việc phải hoàn trả một phần các khoản vay ngắn hạn đến hạn thanh toán. Cũng theo Bộ Tài chính, năm 2011, dự kiến khoản chi trả nợ ước tính là 86.000 tỉ đồng, tăng 22,4% so với dự toán. Rõ ràng, khi nợ nước ngoài có tỷ trọng cao trong tổng số nợ công, thì các khoản gốc và lãi phải trả sẽ bị neo vào tỉ giá, và rủi ro sẽ lớn hơn khi thời điểm thanh toán trùng với thời điểm thị trường tài chính thế giới nhiều biến động, nhất là khi đồng USD ở trong tình trạng có nguy cơ rớt giá.

Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, TS Lê Xuân Nghĩa phân tích: Trong chiến lược phát triển kinh tế của VN trong những năm gần đây, Chính phủ có kế hoạch triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn như nhà máy điện nguyên tử, đường sắt cao tốc... nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ còn tăng vọt. Cách đây vài năm, tỉ giá là 11 nghìn VN đồng quy đổi bằng 1 USD, thì ở thời điểm hiện tại tỉ  giá đã lên đến mức trên dưới 20 nghìn VN đồng quy đổi bằng 1 USD. Như vậy, với các khoản vay vào thời điểm đó, đến nay con số chênh lệch là rất lớn và khoản chênh lệch này nền kinh tế VN phải hứng chịu.

Nhân tố gia tăng lạm phát

Một chuyên gia thuộc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright nhận xét, bên cạnh việc neo vào tỉ giá hối đoái, nợ công VN còn neo vào yếu tố lạm phát, và tham vọng tăng trưởng GDP. Sau một thời gian đầu tư mạnh, tăng trưởng cao, lạm phát trở lại và lãi suất ngân hàng tăng vọt sẽ khiến lợi suất trái phiếu trong nước và trái phiếu quốc tế cũng tăng theo. Năm 2010, lợi suất trái phiếu trong nước trung bình ở mức 10%. Còn trong 6 tháng đầu năm 2011, lợi suất trái phiếu quốc tế và trong nước ghi nhận mức dao động 11-12,5%, thậm chí, có phiên đấu thầu lô lớn, lãi suất đăng ký cao nhất cho kỳ hạn 5 năm đã lên tới 17% và chỉ mới chịu giảm gần đây do thị trường tín dụng đã phần nào hạ nhiệt lãi suất huy động. Đó là một vòng xoáy mà theo thời gian, cho dù các khoản vay được hưởng lãi suất ưu đãi thấp tới đâu (không tính đến các khoản vay với lãi suất thả nổi và mức lãi trên dưới 10% mà năm 2010, VN nợ 1,888 tỉ USD với mức lãi này), thì áp lực của các khoản nợ đến lúc phải trả cả gốc lẫn lại cũng không hề nhỏ. Đó chính là một nhân tố làm gia tăng lạm phát. 

“Việc bắt buộc phải cân đối nguồn ngoại tệ để trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế. Do đó, chống lạm phát ở năm 2011 – 2012, cũng phải tính đến xem xét lại con số nợ công và việc quản lý rủi ro nợ công. Và một công tác quan trọng là giám sát, và giám sát chặt chẽ hơn nữa hiệu quả dòng vốn đầu tư, đặc biệt là từng đồng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các dự án, hoạt động kinh doanh của tập đoàn, tổng Cty, lẫn các khoản chi tiêu mua sắm của chính phủ và chính quyền địa phương”, chuyên gia này nói.

Như vậy, lạm phát trước mắt có thể kiềm chế bằng chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa, còn các khoản nợ có thể làm gia tăng lạm phát thì lại phụ thuộc phần lớn vào thị trường tài chính nước ngoài. Mong sao trong phiên họp Quốc hội khóa XIII kỳ này, các đại biểu Quốc hội cẩn trọng và nghiêm khắc hơn trong việc thảo luận về vấn đề nợ công, cũng như khả năng kiểm soát nợ công thực tế. Đây cũng là nguyện vọng chính đáng của những người dân đang phải gánh trên vai khoản nợ không dưới 600 USD mỗi người để đưa vào các khoản thuế phải đóng ở hiện tại và tương lai, cho các khoản nợ công hôm qua và hôm nay.

Lê Mỹ

diễn đàn doanh nghiệp

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng