PGS.TS Đặng Văn Thanh: "Cần làm tốt gói kích cầu hiện tại"
Tiếp sau bài phỏng vấn với ông Đinh Văn Nhã, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội, về việc triển khai gói kích cầu thứ hai, TBKTSG Online cũng có cuộc trao đổi với PGS.TS Đặng Văn Thanh, chuyên gia kinh tế tài chính cao cấp của Quốc hội, Chủ tịch Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), để ghi nhận thêm ý kiến xung quanh vấn đề này.
Cuộc trao đổi với ông Đặng Văn Thanh được thực hiện bên lề hội thảo về các chương trình của Quốc hội đối với những vấn đề quan trọng của đất nước khi Việt Nam là thành viên của WTO, vừa diễn ra tại TPHCM.
Theo ông, gói kích cầu thứ nhất đã đạt những hiệu quả thế nào?
Mặc dù chỉ chưa đầy 8 tháng triển khai gói kích cầu thứ nhất nhưng cũng có thể có những đánh giá ban đầu một cách tổng quát. Chính sách và biện pháp kích thích kinh tế đã góp phần tăng đầu tư, tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn, góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp, khôi phục sản xuất, tái lập và duy trì thị trường...
Trước hết, đã ngăn được đà suy giảm kinh tế. Cụ thể, GDP quí 1-2009: 3,14%, quí 2: 4,46%, quí 3: 5,76%, quí 4 dự tính 6,5 - 6,8%. Cả năm 2009, GDP có thể đạt 5,0 - 5,2%; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,9%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,4%, khu vực dịch vụ tăng 6,5%.
Thứ hai, sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đều dần phát triển trở lại, mặc dù kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm so với năm 2008, nhập siêu vẫn lớn.
Thứ ba, kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định, các cân đối thu chi ngân sách nhà nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế... được bảo đảm, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 chỉ tăng 4,11%. Thị trường chứng khoán đang có sự phục hồi.
Thứ tư, đảm bảo đời sống nhân dân, chính trị - xã hội ổn định như hỗ trợ cho các hộ nghèo ở 62 huyện nghèo nhất cả nước với nhiều chương trình hỗ trợ sản xuất, đào tạo…
- Vậy gói kích cầu thứ nhất còn những hạn chế nào?
- Bản thân các giải pháp kích thích kinh tế và gói kích cầu cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, tồn tại và không ít hệ lụy, trong đó có những hệ lụy chưa bộc lộ một cách đầy đủ.
Trước hết, cơ chế hỗ trợ lãi suất 4% thực hiện trong ngắn hạn, diện cho vay rộng, đối tượng được hỗ trợ lãi suất còn có sự trùng lặp giữa Quyết định số 497/QĐ-TTg với quyết định số 131/QĐ-TTg và Quyết định số 443/QĐ-TTg, điều kiện, thủ tục cho vay chặt chẽ hơn so với cho vay theo cơ chế thông thường. Vì vậy, khó kiểm soát việc sử dụng và chuyển dịch vốn vay. Việc triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực thi chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao đã và sẽ gây sức ép tăng lãi suất thị trường và là nguy cơ tái lạm phát.
Nợ xấu ngân hàng có thể tăng, do lãi suất cho vay đồng Việt Nam sau khi được hỗ trợ khá thấp, doanh nghiệp nhập khẩu chuyển sang vay tiền đồng để mua ngoại tệ, gây sức ép tăng tỷ giá và căng thẳng thanh khoản trên thị trường ngoại hối. Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn tự có gửi vào ngân hàng thương mại để hưởng lãi suất cao (từ 7-10%/năm), cho nên đã xuất hiện tình trạng bất bình đẳng, ỷ lại và có thể triệt tiêu động lực trong kinh doanh do một số doanh nghiệp hưởng hỗ trợ lãi suất 4%/năm. Bên cạnh đó, đã xuất hiện hiện tượng không lành mạnh trong hoạt động tín dụng, trong tiếp cận nguồn vốn vay, như sử dụng vốn vay không đúng mục đích, đảo nợ…
Thứ hai, cùng với tăng chi ngân sách, tác dụng của giảm, miễn thuế đã gây giảm thu ngân sách, tăng bội chi ngân sách đáng kể (có khả năng 6,9%), nhưng tác dụng kích thích kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng không nhiều, không như mong đợi.
Thứ ba, tình trạng triển khai chậm các chương trình dự án, giải ngân chậm, đầu tư dàn trải và kém hiệu quả, vì vậy rất khó hoàn thành nhiệm vụ thực hiện các khoản đầu tư của nhà nước trong năm 2009. Ngay việc bù lãi suất 4% với số tiền 17-18 nghìn tỉ đồng (tương đương 1 tỉ đô la Mỹ), nhưng theo Ngân hàng Nhà nước, qua thực hiện hơn 8 tháng mới giải ngân được khoảng 60-70%; dự tính đến cuối năm, bù lãi suất khả năng đạt 10.000 tỉ đồng.
Như vậy số tiền chưa được giải ngân còn khá nhiều, phải giải ngân tiếp trong năm 2010. Chắc chắn lại có tình trạng chuyển nguồn vốn đầu tư, vốn chi ngân sách nhà nước của năm 2009 sang năm 2010 sẽ không hề nhỏ hơn những năm trước.
- Như vậy, theo ông Chính phủ có nên triển khai gói kích cầu thứ hai hay không?
- Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng để tiếp tục phát huy gói kích cầu đã và đang thực hiện thì nên triển khai tiếp gói kích cầu thứ hai, nhưng cũng có ý kiến cho rằng gói kích cầu thứ nhất chưa thực hiện xong, có tác dụng nhưng cũng có nhiều hệ lụy, vướng mắc; vì thế không nên triển khai gói kích cầu thứ hai.
Theo quan điểm của tôi, không có khái niệm gói một hay gói hai. Cần đánh giá toàn diện thực trạng và tác dụng của gói kích cầu. Thời gian còn quá sớm để có sự kết luận đúng mức về tác dụng của nó. Kết quả đạt được đến hôm nay không hẳn là do gói kích cầu mang lại, mà là kết quả của tổng thể các giải pháp, chính sách kinh tế, tài chính tiền tệ trong năm 2009 và nhiều năm trước đó.
Chính sách tài chính và tiền tệ có độ trễ của nó, và trong không ít trường hợp độ trễ trong và độ trễ ngoài không ngắn chút nào. Vốn kích cầu giải ngân chưa xong, chưa vào hết nền kinh tế thì tác dụng ngăn chặn suy giảm kinh tế đâu phải tất cả hay chủ yếu do gói kích cầu này. Tôi cho rằng cần tiếp tục thực hiện thật tốt gói kích cầu hiện tại, có những điều chỉnh cần thiết về phạm vi, đối tượng, thủ tục, tháo gỡ những vướng mắc và đưa dần nền kinh tế về quỹ đạo của nó, đúng theo nghĩa của kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập.
- Vậy theo ông, nếu không triển khai gói kích cầu thứ hai thì Chính phủ nên có những biện pháp gì để ngăn chặn sự suy giảm kinh tế?
- Kích cầu thực chất là biện pháp giải cứu nền kinh tế trong lúc khẩn cấp, vì thế theo tôi, nên đưa về quỹ đạo bình thường để tạo ra môi trường bình đẳng, môi trường tiếp cận các nguồn vốn không có phân biệt đối xử giữa các đối tượng. Cần có giải pháp và chính sách toàn diện hơn để mọi đối tượng có cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn vốn. Ví dụ, Nhà nước nên có chủ trương áp dụng lãi suất thấp cho tất cả những đối tượng, giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn vay.
Bên cạnh đó, Nhà nước nên có biện pháp tháo gỡ những nút thắt giúp doanh nghiệp giảm bớt những chi phí không cần thiết, trong đó có chi phí về thuế. Hiện nay các doanh nghiệp không ngại nộp thuế mà họ ngại chính các thủ tục chi phí cho thủ tục kèm theo. Vì thế, Nhà nước cần tập trung chính sách, vốn, cơ chế giải quyết môi trường kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng, để các doanh nghiệp tự giảm bớt được chi phí dưới sự hỗ trợ của Nhà nước.
Ngoài ra, nên có sự đánh giá toàn diện gói kích cầu, đồng thời có sự chấn chỉnh kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm và lệch lạc. Nếu lượng tiền tung vào lưu thông càng lớn sẽ tiềm ẩn nguy cơ tái lạm phát, nếu tái lạm phát trở lại tình hình sẽ nghiêm trọng hơn. Vì thế, cần có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ bây giờ.
Đồng thời, khẩn trương tái cơ cấu nền kinh tế, chuẩn bị tích cực cho sau khủng hoảng. Trong đó, tập trung tái cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực, tái cơ cấu đầu tư, vốn đầu tư và tái cơ cấu thị trường… đảm bảo cho kinh tế của chúng ta phát triển ổn định và bền vững.
- Xin cảm ơn ông!
Theo quan điểm của tôi, không có khái niệm gói 1 hay gói 2. Cần đánh giá toàn diện thực trạng và tác dụng của gói kích cầu. Thời gian còn quá sớm để có sự kết luận đúng mức về tác dụng của nó.
Kết quả đạt được đến hôm nay không hẳn là do gói kích cầu mang lại, mà là kết quả của tổng thể các giải pháp, chính sách kinh tế, tài chính tiền tệ trong năm 2009 và nhiều năm trước đó.
Anh Quân
TBKTSG Online