Phó Tổng Nam A Bank kiến nghị các giải pháp cho nhu cầu vốn đầu tư công
Quy mô đầu tư công đang mở rộng nhanh trong khi các kênh vốn dài hạn chưa phát triển tương xứng, khiến gánh nặng ngày càng dồn lên hệ thống ngân hàng.
Quan điểm trên được ông Hà Huy Cường - Phó Tổng Giám đốc Nam A Bank nêu tại tọa đàm về đầu tư công ngày 23/12. Ông Cường cho rằng áp lực vốn sẽ trở nên rõ nét hơn khi nền kinh tế bước sang giai đoạn 2026-2030. Năm 2025, dù Chính phủ và các bộ, ngành đã đẩy mạnh điều hành, tiến độ giải ngân vẫn chưa đạt kỳ vọng. Trong khi đó, hàng loạt dự án hạ tầng quy mô lớn đang được chuẩn bị hoặc đồng loạt khởi động, kéo theo nhu cầu vốn tăng nhanh trong thời gian ngắn.
“Hàng loạt dự án hạ tầng lớn được khởi động, cùng các định hướng tăng trưởng mới, đặc biệt là Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, đã tháo gỡ nhiều nút thắt. Đầu tư lúc này giống như một chiếc lò xo bị nén lâu ngày và đang bung ra”, ông Cường nói.
Theo lãnh đạo Nam A Bank, khi đầu tư tăng tốc, nhu cầu vốn sẽ phình to tương ứng và áp lực lớn nhất đang dồn lên hệ thống ngân hàng. Dự kiến năm 2026, tăng trưởng tín dụng có thể đạt 16-17%, thậm chí cao hơn theo định hướng điều hành. Trong khi đó, tăng trưởng huy động vốn hiện chỉ quanh mức 11-12%, khiến khoảng cách giữa cho vay và huy động ngày càng nới rộng.
“Dư nợ tín dụng hiện đã trên 18 triệu tỷ đồng, trong khi huy động chỉ khoảng 16 triệu tỷ. Khoảng chênh lệch này ngày càng lớn và tạo áp lực rất rõ lên cân đối vốn của ngân hàng”, ông Cường nêu thực trạng.
Chuyên gia cho rằng không thể tiếp tục dồn toàn bộ nhu cầu vốn cho đầu tư công lên tín dụng ngân hàng, trong khi hệ thống vẫn phải ưu tiên yêu cầu an toàn. Nếu chỉ trông vào ngân hàng, dư địa tài trợ sẽ ngày càng hạn hẹp khi quy mô đầu tư công mở rộng nhanh.
Phó Tổng Giám đốc Nam A Bank Hà Huy Cường phát biểu tại sự kiện ngày 23/12 - Ảnh: Tử Kính
|
Từ đó, ông đưa ra 3 nhóm kiến nghị chính.
Nhóm thứ nhất là sớm có cơ chế phù hợp để khơi thông kênh trái phiếu phục vụ đầu tư công và hạ tầng. Trái phiếu vẫn là kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, nhưng sau các biến động thời gian qua, thị trường phát triển chậm lại, không theo kịp tốc độ gia tăng nhu cầu vốn cho hạ tầng.
Theo ước tính, việc khởi động gần 500 dự án hạ tầng lớn gần đây tạo ra nhu cầu vốn khoảng 25.2 triệu tỷ đồng - tương đương quy mô tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng trong khoảng 2 năm. Nếu không có thêm kênh trái phiếu hỗ trợ, áp lực vốn sẽ tiếp tục dồn lên tín dụng.
Nhóm kiến nghị thứ hai xuất phát từ đặc thù huy động vốn của các ngân hàng. Nguồn tiền gửi hiện chủ yếu mang tính ngắn hạn, trong khi các dự án đầu tư công có vòng đời kéo dài hàng chục năm. Quy định chỉ cho phép sử dụng tối đa 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn giúp đảm bảo an toàn hệ thống, nhưng đồng thời tạo sức ép lớn khi ngân hàng tham gia tài trợ hạ tầng.
Theo đại diện ngân hàng, vấn đề đặt ra là cần xem xét các cơ chế linh hoạt hơn hoặc tách một phần vốn đầu tư công ra khỏi cách tính tỷ lệ này thông qua các nguồn vốn khác, nhằm giảm áp lực cho hệ thống tín dụng.
Nhóm đề xuất thứ ba là khai thác mạnh hơn nguồn vốn quốc tế. Theo nhìn nhận được đưa ra, nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đang nắm giữ lượng vốn lớn. Bài toán không nằm ở việc thiếu tiền, mà ở khả năng đưa dòng vốn đó vào các dự án hạ tầng tại Việt Nam. Trong bối cảnh này, ngân hàng có thể đóng vai trò trung gian nếu khung chính sách đủ rõ ràng và ổn định.
Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, cho rằng vấn đề không chỉ nằm ở quy mô vốn, mà còn ở cách tiếp cận đầu tư công trong nhiều năm qua.
“Chúng ta đang nói rất nhiều đến giải ngân, nhưng giải ngân nhanh không đồng nghĩa với hiệu quả cao”, ông Tuấn nói. Theo ông, đầu tư công chỉ thực sự tạo tăng trưởng bền vững khi giúp nâng năng suất, giảm chi phí cho nền kinh tế và kéo theo đầu tư tư nhân.
Dữ liệu nghiên cứu giai đoạn 2016-2023 cho thấy hệ số sử dụng vốn ICOR của Việt Nam luôn ở mức cao so với nhiều nền kinh tế trong khu vực, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chưa tương xứng với lượng vốn bỏ ra. “Điều này cho thấy nếu chỉ bơm thêm vốn mà không cải thiện chất lượng đầu tư, tăng trưởng sẽ ngày càng tốn kém”, ông nhận định.
Không ít dự án đầu tư công chưa tạo ra giá trị như kỳ vọng do chưa giúp giảm chi phí logistics, chưa cải thiện đáng kể kết nối vùng hoặc chưa đủ sức kéo theo khu vực tư nhân. Khi các dự án không hình thành được dòng tiền đủ mạnh trong tương lai, rủi ro sẽ quay trở lại hệ thống tài chính, trong đó ngân hàng chịu tác động rõ nét.
Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, chuyện đầu tư công không chỉ dừng ở quy mô vốn mà còn nằm ở cách dòng tiền được vận hành trong hệ thống tài chính. Ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 2, cho rằng đầu tư công có tác động lan tỏa tích cực đến tăng trưởng tín dụng, nhưng hiệu quả chỉ hình thành khi dòng vốn được luân chuyển đúng nhịp.
Theo ông, trong quá trình triển khai các dự án, ngân hàng chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn mang tính tạm thời cho doanh nghiệp thiết kế, thi công, nhà thầu và các đơn vị cung ứng vật liệu. Đây là giai đoạn tín dụng tham gia để bảo đảm tiến độ dự án. Khi các hạng mục hoàn thành và được nghiệm thu, dòng tiền từ ngân sách quay trở lại sẽ trở thành nguồn trả nợ cho ngân hàng.
Cơ chế này giúp tín dụng mở rộng nhưng vẫn gắn với khả năng thu hồi vốn, miễn là các dự án phát huy được hiệu quả sau đầu tư.
Ông Lệnh nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của đầu tư công trong việc định hướng tăng trưởng và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế. “Đầu tư công chỉ thực sự phát huy tác động khi hiệu quả của dự án tạo được dòng tiền và thúc đẩy việc sử dụng vốn tín dụng ngân hàng cũng như các nguồn vốn khác một cách hợp lý”, ông nói.
Tử Kính







