Tái cơ cấu trong thu hút FDI
Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam bị sụt giảm mạnh trong năm 2009. Tuy nhiên, trong tình hình khủng hoảng toàn cầu, sự sụt giảm đó là một tất yếu. Chính thời điểm của khủng hoảng này, Việt Nam cần thay đổi mạnh mẽ tư duy về thu hút FDI.
Số vốn FDI đăng ký năm 2009 chỉ đạt khoảng 13 tỷ USD, giảm tới 70% so với năm 2008. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mại- Chủ tịch Hiệp hội Đầu tư nước ngoài Việt Nam, vốn đăng ký FDI giảm nhưng không nên coi đó là một tai hoạ vì vốn đăng ký mới chỉ thể hiện cam kết của các nhà đầu tư quốc tế, chưa phải là hoạt động thực tế.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch& Đầu tư), cả năm 2009 tổng số vốn đăng ký FDI chỉ bằng 28% so với năm 2008, nhưng số vốn thực hiện vẫn tới khoảng 10 tỷ USD. Vì thế, ông Mại nhấn mạnh, vốn thực hiện mới là chỉ tiêu quan trọng nhất nên viêc chỉ sụt giảm 14% là kết quả đáng khích lệ khi con số này ở các nước khác trong khu vực khoảng 20- 30%.
Ông Mại nhận định, vốn FDI vào Việt Nam trong những năm tới phụ thuộc vào việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề kinh tế- xã hội sau khủng hoảng. Trong đó, yếu tố đầu tiên chính là thể chế kinh tế cần được hoàn chỉnh nhanh và đồng bộ hơn.
Đại diện Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) cho rằng, năm 2010 là năm quan trọng vì theo cam kết WTO của Việt Nam, nhiều hạn chế trong các ngành dịch vụ sẽ được dỡ bỏ. Việc thực hiện đầy đủ và kịp thời các cam kết này là yếu tố chính để Việt Nam tiếp tục thu hút FDI.
EuroCham cũng cảnh báo, Việt Nam đã vượt khủng hoảng và có hồi phục mạnh trong ngắn hạn. Tuy nhiên, không nên vui mừng với điều này quá lâu, thay vào đó phải tập trung giải quyết các rào cản lớn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy thay đổi cơ cấu kinh tế để có thể tăng năng suất và phát huy tối đa các tiềm năng tăng trưởng còn tiềm ẩn của quốc gia. Không có những cải cách, Việt Nam khó có thể tăng trưởng vượt lên khỏi một nền sản xuất dựa vào chi phí thấp vươn tới một nền kinh tế phồn thịnh và đa dạng hơn.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Mại cũng cho rằng, hiện đang có tâm lý thực hiện các cam kết quốc tế là chịu sức ép từ bên ngoài nên tìm mọi cách trì hoãn mà không thấy đó là xuất phát từ nhu cầu nội tại phát triển trong một thế giới toàn cầu hoá. Là thành viên WTO, đã đến lúc người dân phải vượt qua rào cản về tư duy của một nước lạc hậu, phụ thuộc vào vốn và công nghệ nước ngoài để có tư duy của một nước có vị thế quan trọng ở Đông Nam Á và vị thế đang tăng lên ở châu Á và thế giới. Như thế, chúng ta cần chuẩn bị để có sự lựa chọn tốt các dự án, các nguồn vốn có lợi và phục vụ cho sự phát triển dài hạn của mình.
Tái cơ cấu
Theo ông Trần Đình thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, một mục tiêu chính của thu hút FDI là kết nối nguồn vốn, công nghệ nước ngoài với trong nước để nâng cao trình độ doanh nghiệp trong nước lên.
Tuy nhiên, điều đó chúng ta chưa làm được và vẫn thiên lệch sang số lượng. Đáng lẽ với nguồn vốn FDI lớn đổ vào nếu chúng ta kết nối được thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ lớn mạnh rất nhanh nhưng ta kết nối kém nên chưa thể nâng doanh nghiệp trong nước lên. Điều duy nhất chúng ta có được là mới tận dụng nguồn vốn này để tăng GDP.
Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam để tận dụng tài nguyên và nhân lực giá rẻ thì nguồn vốn càng nhiều và dự án càng lớn thì càng tiêu tốn nguồn lực. Đó là điều dễ nhận thấy và chính những doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, bên cạnh những đóng góp cho tăng trưởng thì chính họ cũng là đối tượng tranh chấp nguồn lực với chính các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là mặt trái của vấn đề mà ngày càng bộc lộ rõ.
Thống kê cho thấy, năm 2008 có 28% dự án liên quan đến sắt thép nhôm, 22% cho chế biến dầu khí, 39% cho căn hộ, văn phòng. Điều đó cho thấy mức đầu tư tăng vọt không chỉ do sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà coóphần do các doanh nghiệp bên ngoài tranh thủ lợi dụng sự dễ dãi, sơ hở trong chính sách của ta về khai thác tài nguyên, cấp đất đai, bảo vệ môi trường…
“Vì thế, thu hút FDI đã đến lúc tính toán để lựa chọn xem thu hút FDI đến mức nào thì tốt, như thế nào là tốt. Việt Nam nghèo cần nhiều vốn nhưng phải đặt trong tương quan với chính khả năng của mình. Đó là vốn vào nhiều nhưng hấp thụ thế nào, nếu không hấp thụ hiệu quả thì ta không được hưởng lợi ích mà nó còn phá huỷ cơ cấu. Đã đến lúc Việt Nam cần nhận thức lại và thay đổi mục tiêu thu hút FDI”- ông Thiên nói.
Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, thì việc lựa chọn FDI cần có những cân nhắc có lợi nhất phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn mà chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế hướng tới. Đây không phải là phân biệt đối xử nhưng chính là sự lựa hợp lý cho phát triển.
Theo ông Nguyễn Mại, chúng ta cần có cách nhìn, cách tư duy mới. Bây giờ chúng ta phải tính đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu không chỉ tăng trưởng mà còn phải xây dựng được cơ cấu kinh tế hiện đại, chất lượng và phát triển bền vững. Đối với những ngành nghề mà trong nước có thể tự làm, sử dụng vốn ít và giải quyết nhiều việc làm thì cần để cho doanh nghiệp trong nước làm vì lợi ích lâu dài của quốc gia. Đối với những ngành nghề cần tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, cần định hướng rõ cho nhà đầu tư biết để xem xét khả năng tham gia.
Ngọc Sơn
TỔ QUỐC