Tin tức
Thị trường chứng khoán VN hạn chế cả về cung và cầu

Thị trường chứng khoán VN hạn chế cả về cung và cầu

12/11/2004

Banner PHS

Thị trường chứng khoán VN hạn chế cả về cung và cầu

Chương trình Phát triển Dự án Me Kong - MPDF vừa công bố báo cáo chuyên đề kinh tế tư nhân số 16, trong đó nhận định những hạn chế mà thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang gặp phải về cơ bản có thể xem xét trên cả hai mặt cung và cầu...

Chương trình Phát triển Dự án Me Kong - MPDF vừa công bố báo cáo chuyên đề kinh tế tư nhân số 16, trong đó nhận định những hạn chế mà thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang gặp phải về cơ bản có thể xem xét trên cả hai mặt cung và cầu.

 

Về mặt cung, báo cáo phân tích, hiện nay có quá ít công ty sẵn lòng hoặc có khả năng đáp ứng các tiêu chí để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, hoặc đơn giản không nhận ra sự cần thiết phải làm điều đó. Đối với những công ty thỏa mãn các tiêu chí niêm yết (không nhiều), sự miễn cưỡng của họ thường xuất phát từ suy nghĩ cho rằng lợi thế và tính hấp dẫn của việc này không đáng kể so với những bất lợi có thể gặp phải.

 

Đặc biệt, mức độ công khai thông tin doanh nghiệp - điều cần thiết để niêm yết trên thị trường chứng khoán, được coi là cản trở lớn đối với nhiều công ty ở Việt Nam hiện nay. Rõ ràng là cần làm cho việc niêm yết trên thị trường chứng khoán (và các yêu cầu pháp lý gắn liền với việc niêm yết) trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp niêm yết tiềm năng, nếu muốn trung tâm giao dịch chứng khoán phát triển trở thành một thành tố quan trọng hơn, và hữu dụng hơn về mặt kinh tế.

 

Chính vì những nguyên nhân nêu trên mà hoạt động huy động vốn cổ phần hiện có thể diễn ra nhiều hơn trên thị trường "chợ đen" không chính thức. Nơi các công ty với thông tin công bố kém minh bạch hơn vẫn có thể tiến hành bán cổ phiếu. Do không được quản lý và giám sát, thị trường vốn không chính thức này có nguy cơ trở thành nạn nhân của một hoặc nhiều vụ bê bối tài chính. Nếu xảy ra, điều này có thể gây hại đến niềm tin đang ngày càng tăng lên của công chúng vào đầu tư vốn cổ phần, và đẩy lùi sự phát triển của hoạt động huy động vốn cổ phần ở Việt Nam.

 

Lòng tin của công chúng vào lĩnh vực tài chính của Việt Nam đã gia tăng đáng kể trong vòng một thập niên qua, tuy vẫn còn khá yếu ớt. Hậu quả của sự sụp đổ những chương trình tín dụng và phá sản ngân hàng không nên bị quên lãng, và không được lặp lại trong các lĩnh vực khác của hoạt động tài chính, bao gồm cả hoạt động huy động vốn cổ phần. Vì vậy, thử thách đặt ra phải loại bỏ dần thị trường chợ đen, chủ yếu bằng cách tăng cường các quy định về quản lý và giám sát thu hút thêm nhiều công ty có cổ phiếu hiện đang giao dịch trên thị trường OTC không chính thức tiến hành niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán chính thức. Việc sử dụng cẩn trọng các ưu đãi về thuế có thể là một công cụ hỗ trợ đạt được mục tiêu này.

 

Xét về khía cạnh cầu, hầu hết các nhà đầu tư ở thị trường chứng khoán hiện nay chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Cũng như các nhà đầu tư cá nhân ở nhiều thị trường chứng khoán Đông Nam Á khác, họ có xu hướng đầu tư mang tính đầu cơ ngắn hạn và ít quan tâm đến các chiến lược đầu tư dài hạn hơn trên cơ sở những hiểu biết căn bản về hoạt động kinh doanh của công ty. Điều này giải thích một phần cho sự biến động thường xuyên của chỉ số VN-Index trong hai năm đầu hoạt động cũng như tình trạng sụt giảm tiếp theo.

 

Cộng đồng các nhà đầu tư hiện nay ở Việt Nam thiếu các nhà đầu tư có tư cách pháp nhân, và do đó không tạo ra một nền tảng đủ mạnh để làm tăng đáng kể số lượng các công ty được niêm yết và giá trị lũy kế của các cổ phiếu lưu hành trên thị trường chứng khoán. Một thị trường chứng khoán lý tưởng nên bao gồm nhiều loại nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, sử dụng các chiến lược đầu tư đa dạng để tạo ra một tập hợp phong phú hơn các đối tượng tham gia thị trường và tăng khối lượng giao dịch. Do đó nảy sinh yêu cầu rõ ràng là cần: phát triển các tổ chức tài chính trong nước và sản phẩm tài chính liên quan đến thị trường chứng khoán; cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài tham gia nhiều hơn nữa vào thị trường này trong nước.

 

Điều này sẽ tạo ra một mảnh đất tài chính lành mạnh hơn mà ở đó thị trường chứng khoán Việt Nam có thể bắt rễ, phát triển. Trong bối cảnh này, việc cấp phép cho các công ty quản lý đầu tư trong nước đầu tiên năm 2003 cũng như việc chuẩn bị đưa các quỹ đầu tư đầu tiên của các công ty này vào hoạt động trong năm 2004 là những tiến bộ đáng khích lệ.

 

Thực ra thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ có thể phát triển lâu dài với vai trò là một phần hợp nhất không thể thiếu của một chương trình phát triển lĩnh vực tài chính ở tầm lớn hơn chứ không phải là một dự án độc lập. Điều này đòi hỏi sự điều phối chính sách chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan của Chính phủ, với các đóng góp về xây dựng chính sách và sự tham gia của các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính (cả ở trong và nước ngoài). Quyết định về việc sáp nhập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài Chính tạo cơ hội cho việc phối hợp chính sách chặt chẽ hơn nhằm hướng tới sự phát triển thị trường vốn ở Việt Nam.

 

Các chi phí cố định cho hoạt động của một hoặc nhiều thị trường chứng khoán có thể khá cao đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, nếu thị trường chứng khoán không đạt được những mục tiêu chính của nó - là công cụ cho các công ty huy động vốn dài hạn để phát triển, và là nơi để các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân đầu tư các nguồn tiết kiệm vào nhiều loại tài sản, hoạt động của thị trường chứng khoán cần được xem xét lại một cách nghiêm túc.

 

Một số nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ và đang phát triển đã bắt đầu nhận ra điều này, và đặc biệt qua việc "di cư" của một số doanh nghiệp quan trọng trong nước ra các thị trường chứng khoán lớn hơn ở nước ngoài , chủ yếu là để tiếp cận tập hợp các nguồn vốn đầu tư quy mô hơn và có tính thanh khoản cao hơn của các quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân. Vì nhiều lý do, khó có thể xảy ra chuyện các công ty Việt Nam tìm cách tiến hành niêm yết ở nước ngoài trong tương lai gần. Tuy nhiên, khả năng làm điều này ở một thị trường chứng khoán khu vực như Singapore thì không ngoài hiện thực. Thực ra, động thái này nên được khuyến khích một cách có cân nhắc, nếu nó cho phép các công ty trong nước huy động vốn cho phát triển dài hạn ở những mức độ ít tốn kém hơn, hoặc chỉ đơn giản là vì không có tính khả thi trong nước, và giúp phát triển hơn nữa chuẩn mực chung về công khai thông tin và quản trị doanh nghiệp trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

 

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang tiến hành xây dựng một bộ Luật Chứng khoán toàn diện, dự định trình lên Quốc hội vào năm 2005. Việc ban hành trong tương lai một bộ luật đồng bộ quản lý ngành chứng khoán, và sự ra đời các quy định hướng dẫn thực thi hiệu quả để hỗ trợ việc thực hiện luật này, tạo cơ hội xây dựng môi trường luật pháp có lợi cho sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Những điểm yếu và thiếu sót trong khuôn khổ pháp lý hiện tại có thể được đề cập và khắc phục.

VnE

Banner PHS
Logo PHS

Trụ sở: Tầng 21, Phú Mỹ Hưng Tower, 08 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 

(Giờ làm việc: 8h00 - 17h00 hàng ngày - trừ thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ) 

1900 25 23 58
support@phs.vn
Kết nối với chúng tôi:

Đăng ký nhận tin

Tải app PHS-Mobile Trading

Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú HưngCông ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng