Từ thu thuế sang nộp thuế
Trong chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, việc người dân và doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm được xem là cốt lõi của sự đổi mới, thay cho việc cơ quan thuế đi thu thuế, người dân đi nộp thuế:
Trong chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, việc người dân và doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm được xem là cốt lõi của sự đổi mới, thay cho việc cơ quan thuế đi thu thuế, người dân đi nộp thuế:
Môi trường đầu tư hấp dẫn từ thuế
Theo Tổng cục Thuế, cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm cho phép tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước chủ động hoàn toàn trong nộp thuế. Tuy nhiên, sự vận hành của một cơ chế quản lý mới, khác hẳn trước đây, đòi hỏi những điều kiện đi kèm không thể thiếu như trang bị kiến thức về thuế cho mọi người, công khai và phổ biến trình tự, thủ tục tính, kê khai, nộp thuế và đặc biệt là dịch vụ về thuế.
Các công ty độc lập tư vấn về thuế ở Việt
Bên cạnh đó, đầu tư vào Việt
Thứ hai là chính sách thuế sẽ phù hợp với các cam kết quốc tế. Nói một cách khác, sự bảo hộ doanh nghiệp trong nước bị thu hẹp. Ông Ninh nhấn mạnh: “Nhà nước bảo hộ có thời hạn những mặt hàng nhạy cảm (phân ra hai loại: loại trừ tạm thời và loại trừ hoàn toàn khỏi việc cắt giảm thuế quan), nhưng chúng ta không thể đóng cửa, vì càng đóng cửa ta càng thụt lùi so với thế giới”.
Ngay trong ngành tài chính, quan điểm bảo hộ để bảo vệ nguồn thu ngân sách cũng đang thay đổi. Nhà nước sẽ chỉ bảo hộ những lĩnh vực non trẻ, dám đổi mới để đạt hiệu quả cao, còn những ngành trì trệ, hiệu quả thấp, bảo hộ lâu dài cũng không thể làm tăng nguồn thu. Hơn nữa, doanh nghiệp nội địa một khi đối mặt với “sóng gió” hội nhập sẽ cứng cáp, khẳng định vị thế của mình và đây chính là nền tảng bứt phá cho thu ngân sách.
Một lộ trình thích hợp
Cơ chế tự khai, tự nộp được thí điểm từ năm 2004 đối với cục thuế Quảng Ninh, TPHCM và từ ngày 1-1-2005 mở rộng ra với cục thuế Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai. Từ ngày
Cơ chế tự khai, tự nộp không thể thực hiện đồng loạt, trên diện rộng với mọi địa phương chủ yếu do trình độ quản lý của ngành thuế còn thấp. Ông Ninh thừa nhận: “Trình độ quản lý thuế của ta còn khoảng cách khá xa so với các nước khu vực. Phương pháp thực hiện cải cách thuế, vì vậy, phải theo lộ trình, kết hợp quản lý hiện đại và quản lý truyền thống”. Những đối tượng có thể nộp thuế theo cơ chế mới sẽ được quản lý theo hệ thống cơ sở dữ liệu tin học. Với những đối tượng còn lại, cơ quan thuế thực hiện cơ chế giám sát, quản lý chặt chẽ đầu ra, ấn định thuế, khấu trừ tại nguồn, ủy nhiệm thu.
Nhà nước đã quyết định chi hơn 4.000 tỷ đồng cho công việc tin học hóa ngành thuế trong năm năm tới với quyết tâm xây dựng cơ sở dữ liệu về tổ chức, cá nhân nộp thuế, so với mục tiêu tăng mức độ ứng dụng tin học 20%/năm trong quản lý thuế. Hệ thống thông tin của cơ quan thuế sẽ nối mạng với các bộ ngành và việc khai, nộp thuế điện tử sẽ được thí điểm trong năm 2006. Có thể hình dung một ngày nào đó, mọi người trong độ tuổi lao động sẽ được cấp mã số thuế, ngồi ở nhà qua mạng, tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm về thuế.
Có vẻ giấc mơ về nộp thuế qua mạng không còn xa nhưng cũng chưa phải gần, khi mà trong lộ trình cải cách thuế tới tận năm 2008 mới là thời điểm đưa giáo dục thuế vào trường học (Trong sách giáo khoa về giáo dục công dân của trường học hiện nay không hề có nội dung giáo dục về thuế). Đào tạo cán bộ ngành thuế thì trong văn bản nào cũng nhắc đến, nhưng đào tạo chuyên sâu theo kiểu mỗi người, mỗi bộ phận một chức năng, không “ôm” nhiều việc vẫn chưa thành quy định cụ thể. Đó là chưa kể ngành thuế chưa đặt mục tiêu đào tạo cán bộ tuyên truyền, thử hỏi làm sao góp phần nâng cao ý thức tự giác nộp thuế của người dân? Ở các nước, trung bình 30% cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền, còn ở Việt
Các luật thuế mới (Theo chương trình cải cách thuế đến năm 2010)
1. Thuế giá trị gia tăng
- Chuyển một số đối tượng không chịu thuế sang chịu thuế giá trị gia tăng. Thống nhất một mức thuế suất chuẩn 10%; duy trì, mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu và hàng hóa, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế; xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất đối với nguyên liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu.
- Thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ.
2. Thuế xuất nhập khẩu
- Giai đoạn 2006-2010 tiếp tục thực hiện theo CEPT/AFTA để đến năm 2010 có 80% dòng thuế có thuế suất 0%. Thu gọn mức thuế nhập khẩu xuống khoảng sáu mức. Xóa bỏ hoàn toàn việc miễn, giảm thuế nhập khẩu.
3. Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Mọi hình thức thu nhập, mọi khoản thu nhập, kể cả thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền thuê đất đều là thu nhập chịu thuế.
- Chuyển các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, những cá nhân hành nghề độc lập, cá nhân có tài sản cho thuê sang áp dụng thuế thu nhập cá nhân.
- Giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ 28% xuống 25% và sau năm 2010 áp dụng mức 20%.
- Chuyển các ưu đãi miễn giảm thuế để thực hiện các chính sách xã hội sang thực hiện các biện pháp tài chính khác.
4. Thuế tiêu thụ đặc biệt
- Bổ sung đối tượng nộp thuế và thuế suất đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cao cấp, nhập ngoại để điều tiết thu nhập của người tiêu dùng. Xóa bỏ việc miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Xóa bỏ phân biệt đối xử đối với rượu bia, ô tô, thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất trong nước và nhập khẩu.
- Tăng thuế suất đối với xăng dầu (hiện ở mức 10%) để đảm bảo giá bán tương đương với mức bình quân chung của các nước trong khu vực.
5. Thuế thu nhập cá nhân (dự kiến ban hành năm 2007)
- Mở rộng đối tượng nộp thuế: hộ kinh doanh, những người hành nghề độc lập, người có tài sản cho thuê, thu nhập từ việc cho vay vốn, thu nhập từ lãi cổ phần, từ trái phiếu, từ tiền gửi ngân hàng của cá nhân.
- Cho phép khấu trừ chi phí tạo ra thu nhập, chi phí chiết trừ gia cảnh đối với người có thu nhập từ tiền lương, tiền công.
- Biểu thuế được xác định theo mức lũy tiến từng phần, tổng mức điều tiết khoảng 30% tổng thu nhập hàng năm của cá nhân. Thu hẹp khoảng cách khởi điểm chịu thuế giữa người trong nước và nước ngoài.
6. Thuế sử dụng đất (mới)
- Mọi tổ chức, cá nhân sử dụng đất đều phải nộp thuế. Thuế đất kinh doanh được điều tiết cao hơn đất ở. Căn cứ tính thuế: diện tích, giá tính thuế, thuế suất. Miễn thuế sử dụng đất cho hộ nông dân đến 2010.
- Bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất.
7. Thuế tài nguyên (mới)
- Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay thuế này được quy định trong Pháp lệnh thuế tài nguyên. Dự kiến Pháp lệnh thuế tài nguyên sẽ nâng lên thành Luật Thuế tài nguyên năm 2008 theo hướng mở rộng diện chịu thuế: tất cả các loại tài nguyên khai thác đều phải chịu thuế.
- Thuế tính trên sản lượng khai thác nhằm khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả
- Mức thuế suất phân biệt theo loại tài nguyên. Tài nguyên quý hiếm, không tái tạo được chịu mức thuế suất cao hơn tài nguyên thông thường hoặc tái tạo lại được. Giá tính thuế là giá bán tài nguyên thương phẩm tại nơi khai thác.
8. Thuế tài sản (mới)
- Thuế tài sản là loại thuế điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản như nhà, ô tô, tàu thuyền… Dự kiến ban hành từ năm 2008 trở đi.
9. Thuế bảo vệ môi trường (mới)
TBKTSG