Vì sao người Hy Lạp không hoan nghênh gói cứu trợ?
Sáu tháng sau khi cuộc khủng hoảng nợ công bùng nổ ở Hy Lạp bao trùm thế giới một nỗi sợ hãi, với sự trợ giúp của Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), chính phủ Hy Lạp tuyên bố đầy tự tin rằng họ sẽ giải quyết được những khó khăn kinh tế và thoát khỏi kịch bản tệ hại nhất.
Nhưng dù cứ cho là “thiên thời địa lợi” đi thì “nhân không hoà”. Hàng ngàn người dân Hy Lạp xuống đường biểu tình hai lần một tuần trong những ngày qua để phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng và các kế hoạch cải cách của chính phủ, nhắc nhở Thủ tướng George Papandreou và đội ngũ cộng sự của ông rằng, họ không nhận được sự đồng lòng của đa số người dân với những chính sách này.
Thủ tướng Papandreou nhiều lần nhấn mạnh rằng chỉ có thay đổi cấp tiến mới là cách duy nhất để đưa Hy Lạp thoát khỏi cảnh vỡ nợ, giảm thâm hụt ngân sách khổng lồ, hiện đang đứng ở mức 13,7%, và dần khắc phục cuộc khủng hoảng, đem lại sự giàu có cho tất cả mọi người.
Vị thủ tướng thuộc đảng xã hội cho rằng Hy Lạp không thể tiếp tục tiêu dùng hơn sản xuất được nữa, rằng như thế sẽ không có tương lai. Giải pháp hữu hiệu duy nhất là tự đứng lên mạnh mẽ bằng đôi chân của mình, thực thi đầy đủ Chương trình tăng trưởng và ổn định và tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt hơn nữa.
Gói cứu trợ nằm trong cơ chế hỗ trợ của EU/IMF mới đây đưa ra với các khoản vay lãi xuất hợp lý với những bước đi phù hợp là lựa chọn duy nhất giải quyết vấn đề nợ công của Hy Lạp vào thời điểm này trong bối cảnh nước này đang chìm sâu hơn vào cuộc khủng hoảng do áp lực của thị trường quốc tế, các cơ quan đánh giá tín dụng và các nhà đầu cơ.
EU và IMF sẽ thiết lập gói hỗ trợ 110 tỷ euro (145 tỷ USD) trong giai đoạn 3 năm. Trong đó, EU cho vay 80 tỷ euro với lãi suất 5% và IMF cho vay 30 tỷ euro còn lại với lãi suất 3%.
Nhưng những người dân Hy Lạp, đã biểu tình trước toà nhà quốc hội nhiều tháng qua với tần suất 2 ngày trong tuần, chưa tin rằng những kế hoạch này có thể đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Dư luận cho rằng, chính phủ Hy Lạp với nạn tham nhũng và quản lý yếu kém, trong nhiều năm qua đã đưa đất nước đến một kết cục tồi tệ như hiện nay, và họ cho rằng, những chính sách này không phải là cách để thoát khỏi khủng hoảng. Thậm chí một số nghĩ rằng sẽ đẩy Hy Lạp vào cái vòng luẩn quẩn nợ nần, đẩy gánh nặng nợ nần cho tương lai và nuôi dưỡng mầm mống tham nhũng ngày càng phát triển.
Kết quả một cuộc thăm dò dư luận mới đây nhất cho thấy 61% người dân Hy Lạp phản đối quyết định của chính phủ kêu gọi sự giúp đỡ từ EU và IMF.
Những chuyên gia phân tích như Joseph Hassid, giáo sư kinh tế Đại học Piraeus, cho rằng các biện pháp thắt chặt chi tiêu và sự can dự của các định chế quốc tế như IMF vào chính sách đối nội sẽ không đem lại hiệu quả mà có thể là thảm hoạ. Hy Lạp đã có bài học từ sự xâm chiếm và can dự của đế quốc Ottoman hàng bao thế kỷ trước đây.
Các nhà phân tích khác cũng chỉ ra rằng, người dân Hy Lạp sẽ không chịu “hy sinh” lợi ích bản thân, phải đối mặt với tình trạng mức sống bị hạ thấp khi kinh tế có thể giảm tới 4% năm 2010 và giảm 2,6% năm 2011. Lương công chức nhà nước và lương hưu giảm 12%, dự đoán thất nghiệp trong các tập đoàn cồng kềnh của nhà nước đang làm người lao động choáng váng.
Đồng euro đã khiến Hy Lạp tê liệt
Gay gắt hơn, các chuyên gia kinh tế đưa ra lập luận rằng, không phải “đám cháy” từ Hy Lạp lan ra có nguy cơ thiêu rụi nhiều nơi khác ở châu Âu mà chính thể chế đồng euro đã khiến các biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của Hy Lạp bị “trục trặc”.
Lý giải cho điều này, các chuyên gia cho rằng, thứ nhất, chính sách tiền tệ đơn nhất đã đẩy nhanh sự gia tăng nợ công của một số nước trong khu vực đồng euro (eurozone). Theo lý thuyết Keynes, chính sách kinh tế vĩ mô đã lấy chính sách tài chính và tiền tệ làm chủ, việc sử dụng phối hợp lẫn nhau giữa hai chính sách này có thể điều tiết sự mất cân bằng kinh tế. Sau khi thực hành tiền tệ chung, ảnh hưởng của các nước thành viên eurozone như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha với chính sách tiền tệ bị suy giảm, chỉ có thể dựa vào số trái phiếu chính phủ đã phát hành và tiêu thụ nhiều hơn để huy động vốn, kích thích kinh tế. Dưới thể chế này, một khi thị trường thiếu lòng tin với viễn cảnh tài chính và nợ công của các nước này, số trái phiếu chính phủ phát hành dựa vào tín dụng quốc gia sẽ cần phải chi trả mức lãi suất cao hơn, từ đó chính phủ phải cõng nợ cao hơn. Khi một nước có thể áp dụng chính sách tài chính để kích thích kinh tế, nếu lại xuất hiện sự mất cân bằng kinh tế, sẽ khiến phạm vi và mức độ mất cân bằng không ngừng rộng và sâu hơn, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Cơ cấu khu vực tiền tệ chung cũng tăng thêm sự bất cân bằng về phát triển kinh tế nội bộ khu vực eurozone.
Thứ hai, chính trị chủ quyền độc lập đã quyết định sự khác biệt mang tính quốc gia của chính sách tài chính. Do sự phát triển kinh tế của các nước khu vực eurozone không cân bằng, thêm vào đó định hướng lợi ích của các nước khác nhau, nên các nước thành viên eurozone đã thực thi chính sách tài chính không giống nhau theo tình hình phát triển kinh tế của nước mình. Chẳng hạn như Hy Lạp, tình hình kinh tế của nước này đã quyết định chính sách thâm hụt là con đường duy nhất để Hy Lạp thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính quốc tế. Cũng giống với Hy Lạp, trước khi gia nhập khu vực eurozone, một số nước vốn thi hành lãi suất cao - bị buộc phải chấp nhận chính sách lãi suất thống nhất của khu vực eurozone, mức độ lãi suất sau khi hạ thấp sẽ kích thích việc đầu tư nhà ở nội địa Hy Lạp gia tăng, hình thành bong bóng bất động sản. Khi giá nhà tăng vọt, hiệu ứng tài sản đã thúc đẩy tín dụng tiêu dùng gia tăng hơn, có tác dụng lôi kéo mạnh mẽ việc bảo đảm phát triển kinh tế quốc gia. Dưới tác động của khủng hoảng tài chính, thị trường bất động sản sụp đổ, nhu cầu tiêu dùng cũng sẽ giảm theo, gây ra suy thoái kinh tế. Chính phủ phải đứng trước sự lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô để kích thích kinh tế, khi chính sách tiền tệ không thể độc lập lựa chọn, chính sách tài chính để kích thích kinh tế đã gây ra sự lựa chọn duy nhất, thông thường trong thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, trọng điểm của chính phủ là áp dụng một loạt gói kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế nội địa phục hồi trong khủng hoảng. Cuối cùng khiến thâm hụt tài chính gia tăng đáng kể, tốc độ tích lũy trái phiếu cũng tăng theo, cùng với sự hạ thấp xếp hạng tín dụng nợ của các cơ quan xếp hạng tín dụng, chi phí huy động vốn từ trái phiếu chính phủ sẽ tăng theo, gây ra khủng hoảng nợ công.
Liều thuốc viện trợ chỉ "trị ngọn"
Từ kế hoạch viện trợ mà các nước đã đề ra cho thấy, kế hoạch viện trợ chưa chạm tới bản chất của khủng hoảng đồng đồng euro. Kế hoạch viện trợ lần này nhìn chung có hai đặc điểm, một là tính nhất trí cao độ mà các chủ thể lợi ích khác nhau của khu vực eurozone đã thể hiện trước khủng hoảng. Khoản tiền 750 tỷ euro trong gói viện trợ lần lượt lấy từ ba chủ thể lợi ích, trong đó, 440 tỷ euro sẽ do thỏa thuận tương hỗ giữa các nước khu vực eurozone cung cấp trong thời gian 3 năm; 60 tỷ euro sẽ lấy “Điều ước Lisbon” của EU làm cơ sở, do EC huy động từ thị trường tài chính; Quỹ tiền tệ quốc tế IMF sẽ cung cấp 250 tỷ euro. Các nước eurozone, Ngân hàng trung ương châu Âu ECB, IMF mỗi bên đều có cơ sở lợi ích của mình, gói viện trợ này cho thấy, khu vực eurozone đang đứng trước nguy cơ và thách thức chưa từng có và cũng cho thấy, quyết tâm bảo vệ đồng euro của các nước châu Âu và các tổ chức của EU. Hai là liên minh kinh tế của khu vực eurozone đã bắt đầu vượt quá bản thân chế độ tiền tệ, bắt đầu kéo dài theo chính sách tài chính của các quốc gia có chủ quyền độc lập. Nhưng sự độc lập về chủ quyền chính trị của của các nước eurozone về cơ bản đã quyết định chính sách tiền tệ của mình.
Hiện nay, EU đang đứng trước hai sự lựa chọn khó khăn. Nếu hy vọng giải quyết vấn đề cơ chế trong quá trình phát triển, việc cứu trợ hiện nay sẽ chỉ dừng lại ở mức “trị ngọn”, và việc chờ đợi những lợi thế của phục hồi kinh tế toàn cầu để che đậy vấn đề cơ chế đồng EUR chỉ có thể là một cách để lựa phỉnh mọi người. Thứ hai, công việc cần thiết hiện nay là phải tiến hành cải cách về bản chất cơ chế đồng euro, tránh chạm đến vấn đề nhạy cảm như lợi ích cốt lõi của đồng euro, chủ quyền chính trị của các nước eurozone. Về điểm này, e rằng, ngay cả nội bộ EU cũng thiếu kết luận có hiệu quả nhất trí thật sự
Võ Vân
Tổ Quốc