VND hướng ngoại: Không dễ!
VND nằm trong số những đồng tiền có khả năng chuyển đổi thấp. Về mặt đối ngoại, VND vẫn chưa trở thành phương tiện thanh toán quốc tế. Cả thực lực và cơ chế chính sách hiện vẫn chưa thể đẩy VND tiến mạnh trên đường hướng ngoại...
VND nằm trong số những đồng tiền có khả năng chuyển đổi thấp. Về mặt đối ngoại, VND vẫn chưa trở thành phương tiện thanh toán quốc tế. Cả thực lực và cơ chế chính sách hiện vẫn chưa thể đẩy VND tiến mạnh trên đường hướng ngoại.
Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã có hẳn một đề án nghiên cứu khá chi tiết và đang tiếp tục tham khảo ý kiến đóng góp của các chuyên gia. Điểm nổi bật nhất của đề án này là đưa ra những chính sách cởi mở hơn để từng bước hỗ trợ cho tính chuyển đổi VND.
Chờ đợi từ chính sách
Không có một sức mạnh Thánh Gióng nào để VND bỗng chốc trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi như Đô la Mỹ, Euro, Bảng Anh… Để hướng ngoại tốt, trước hết VND phải đảm bảo chuyển đổi tốt ngay trong phạm vi nội địa.
Vì vậy, mục tiêu chính mà SBV đề ra là “chủ yếu nâng cao tính chuyển đổi của VND ở trong nước, từng bước nâng cao tính chuyển đổi quốc tế của VND”.
Đó là tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai, bước đầu xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu. Mở rộng quy định xuất khẩu có thể thu bằng VND theo tỷ lệ tăng dần hàng năm; dự kiến năm 2006 là 10% và đến năm 2010 là 30%.
Đó là tự do hóa có lựa chọn một phần giao dịch vốn, tạo cơ sở cho thời kỳ sau năm 2010 đạt được mục tiêu tự do hóa hoàn toàn giao dịch vốn, tăng tính chuyển đổi hoàn toàn của VND cao hơn. Bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt
Ông Trương Văn Phước, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối (SBV), cho rằng nên mở rộng quy định xuất khẩu thu bằng VND, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài dùng VND để đầu tư, cho phép vay VND từ nước ngoài… Những đổi mới này cần được thực hiện với điều kiện phải chứng minh được tính hợp pháp của nguồn VND đó.
Những định hướng chính sách nói trên được nhiều chuyên gia đánh giá cao về tính cởi mở. Song, khả năng thực thi vẫn chưa có những luận bàn cụ thể. Tất cả những chính sách đó đang được dự thảo và dự kiến có lộ trình thực hiện trong một vài năm sau. Với SBV, đây là những biện pháp cụ thể trước mắt mà chính sách tiền tệ cần triển khai để từng bước hỗ trợ, nâng cao tính chuyển đổi của VND.
Hướng ngoại, cần có nội lực mạnh
Ông Trương Văn Phước có đề cập đến khái niệm “tự do hóa chuyển đổi” khi nói về VND.
Tuy nhiên, theo định nghĩa của IMF, “đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một nước hội viên mà IMF nhận thấy: Trong thực tế đồng tiền này được sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt”.
Với khái niệm trên, có hai yếu tố chủ quan và khách quan.
Khách quan: đó là đồng tiền mạnh, có uy tín, ở trong nước dễ dàng “đổi” ra ngoại tệ, ở ngoài nước có thể sử dụng trực tiếp làm phương tiện thanh toán quốc tế, được mua bán trên thị trường ngoại hối, thậm chí được sử dụng làm dự trữ ngoại hối. VND vẫn chưa có được đầy đủ những khả năng này.
Chủ quan: đó là ý chí của Nhà nước phát hành ra đồng tiền đó, cho phép đồng tiền của mình được tự do đổi ra ngoại tệ, chuyển hoặc ra khỏi quốc gia không bị hạn chế bởi các quy định về quản lý ngoại hối, điều này đồng nghĩa với việc ngoại tệ được chuyển vào, chuyển ra một cách tự do (còn gọi là tự do ngoại hối). Điều này vẫn chưa thể thực hiện ở Việt
Để đáp ứng được hai yếu tố khách quan và chủ quan trên, theo các chuyên gia, đồng tiền phải có một nội lực mạnh. Nói cách khác, tính chuyển đổi của đồng tiền phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế và ý chí của Nhà nước thông qua chính sách quản lý ngoại hối.
Trong khi đó, Việt
Với những hạn chế trên, SBV đang nghiên cứu những giải pháp và lộ trình tháo gỡ cụ thể. Mục tiêu là: Trong tương lai trung hạn, tuy chưa có tham vọng biến VND thành đồng tiền tự do chuyển đổi, nhưng cái đích cuối cùng cần đạt được là “tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam”.
TBKTVN