Có "lực" mới "vực" được... điện!
Quyết định phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn điện lực Việt Nam của Thủ tướng Chính phủ (ngày 22/6/06) ghi rõ:
Quyết định phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn điện lực Việt Nam của Thủ tướng Chính phủ (ngày 22/6/06) ghi rõ: "Công ty mẹ - Tập đoàn điện lực Việt Nam là công ty nhà nước, có chức năng trực tiếp sản xuất, kinh doanh và đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối các công ty con thông qua vốn, tài sản được Nhà nước giao quản lý...".
Những thách thức lớn trong huy động vốn đầu tư và sự thay đổi về cơ chế đòi hỏi Tập đoàn cần có một chiến lược phát triển tài chính phù hợp và hiệu quả.
Đánh giá về mô hình hiện tại, Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) nhận định, một trong những tồn tại lớn nhất là "hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao và chưa ổn định": tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của EVN chỉ đạt khoảng 2,9% trong năm 2005. Với tỷ suất lợi nhuận này, ngành điện sẽ rất khó hấp dẫn được các nhà đầu tư bỏ vốn tham gia các DA phát triển nguồn và lưới (các nhà đầu tư thường đòi hỏi tối thiểu phải đạt từ 12-15%).
Thường trực nỗi lo thiếu vốn
Kể từ khi thành lập (10/1994), EVN đã tập trung nhiều nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển nguồn và lưới điện, với tổng cộng 136.000 tỷ đồng vốn đầu tư cho các DA; riêng từ năm 2001 - 2005 là 99.000 tỷ đồng.
Ngoài nguồn vốn từ tài sản khấu hao cố định Nhà nước để lại cho đầu tư, vốn ngân sách, vốn chênh lệch từ giá điện (khoảng 5.000 tỷ đồng từ các lần điều chỉnh giá), nguồn thu sử dụng vốn..., EVN đã tìm cách vay vốn từ các tổ chức tài chính ngân hàng trong và ngoài nước, tận dụng tối đa các nguồn vốn vay ODA, vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư và trả nợ.
Đồng thời, EVN cũng đã phối hợp với các bộ, ngành chức năng thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh, dần thu hút các nhà đầu tư tham gia phát triển các DA nguồn điện và phân phối điện (dự tính, đến năm 2008, sẽ thu được khoảng 11.277 tỷ đồng từ bán cổ phần).
Tuy nhiên, theo tính toán, trong giai đoạn 2006-2010, để đáp ứng tốc độ tăng phụ tải trung bình khoảng 16% (phương án cơ sở) và 17% (phương án cao) - với sản lượng điện thương phẩm tương ứng là 113 và 118 tỷ kWh vào năm 2010, thì cần phải gấp rút đưa vào vận hành thêm 68 DA nguồn điện với tổng công suất 16.850 MW.
Nếu tính cả nhu cầu vốn để trả nợ gốc và lãi vay trong thời gian xây dựng (khoảng 63.000 tỷ đ), thì tổng vốn của EVN trong giai đoạn này cần tới 250.000 tỷ đồng; toàn ngành điện cần tới 350.000 tỷ đồng (trong khi mới chỉ có thể thu xếp được hơn 257.000 tỷ đ).
Đặc biệt, với bước chuyển từ một Tổng công ty Nhà nước lên Tập đoàn hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, kinh doanh đa ngành..., thì nhu cầu về vốn đầu tư trong thời gian tới của Tập đoàn sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Một chiến lược phát triển tài chính phù hợp không những sẽ xóa bỏ được "nỗi lo thường trực" về vốn đầu tư, mà còn góp phần tạo ra một công cụ điều hành hữu hiệu - đó chính là điều hành bằng cơ chế tài chính.
Chuyên nghiệp hoá công việc huy động vốn
Những mục tiêu về đầu tư - tài chính của Tập đoàn đã được xác định trong Đề án xây dựng: thứ nhất là, hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi với tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh phải bằng hoặc lớn hơn 12%; mở rộng các ngành nghề có hiệu quả để tạo sự hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh tài chính; thứ hai là, đảm bảo sự cân bằng về tài chính chung trong Tập đoàn, đảm bảo tỷ lệ tự đầu tư trong Tập đoàn ở mức trên 30%; thứ ba là, thiết lập quan hệ tài chính thông qua cơ chế đầu tư tài chính, thực hiện các biện pháp để giảm rủi ro trong đầu tư phát triển đến mức thấp nhất; thứ tư là, bảo đảm tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp điện sao cho Tập đoàn có thể chi phối kiểm soát được việc đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định trong hệ thống điện quốc gia.
Cùng với 4 mục tiêu này là 5 nhiệm vụ về đầu tư tài chính:
Một là, tích tụ tập trung vốn phục vụ đầu tư phát triển, tiến tới thiết lập cơ chế quản lý vốn chủ sở hữu của Tập đoàn và tạo ra sự liên kết tài chính đối với các đơn vị thành viên, sử dụng cơ chế tài chính như một công cụ điều hành của Tập đoàn;
Hai là, xây dựng các nguyên tắc xác định giá mua bán điện trên cơ sở tách bạch từng khâu sản xuất, truyền tải, phân phối bán lẻ đảm bảo sự cân bằng giữa các khâu;
Ba là, thành lập Công ty tài chính điện lực đảm bảo thu xếp vốn đầu tư phát triển, thanh toán và bao thanh toán, tham gia thị trường chứng khoán để phát hành trái phiếu trong và ngoài nước (dự kiến cả năm sẽ phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu trong nước, trong quý III sẽ phát hành 250 triệu USD trái phiếu quốc tế); tiếp tục tận dụng nguồn vốn vay nước ngoài từ các nguồn vay ODA của Chính phủ các nước, của các tổ chức WB, ADB... trong các khoản vay của Chính phủ;
Bốn là, tiếp tục thực hiện chủ trương điều chỉnh giá điện theo lộ trình và ổn định giá điện theo thông số đầu vào;
Năm là nghiên cứu xác định giá điện trần và các hình thức quản lý giá bán điện theo giá trần để đề xuất với Cơ quan quản lý nhà nước về giá điện.Hàng loạt các biện pháp nhằm hiện thực hoá những mục tiêu này đã và đang được EVN gấp rút tiến hành: mở rộng hoạt động kinh doanh viễn thông (doanh thu viễn thông sau khi trừ kết nối trong 6 tháng đầu năm 2006 đã đạt 226 tỷ đồng, tăng tới 246% so với cùng kỳ năm 2005); đẩy mạnh công tác đổi mới, sắp xếp và cổ phần hóa, đồng thời với việc tham gia thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước và quốc tế; tham gia xây dựng phương án lộ trình điều chỉnh giá điện 2006- 2008; tiến hành phân cấp đầu tư và thực hiện cơ chế hạch toán độc lập...
Đặc biệt Dự án thành lập Công ty TNHH nhà nước một thành viên tài chính điện lực đã được xây dựng và đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tạo nên một đơn vị chuyên nghiệp có khả năng tiếp cận nhiều nguồn vốn hơn.
TBKTVN