Hai câu hỏi gửi Bộ Tài chính
Gần đây, Cục Thuế Hà Nội cử cán bộ đến trường tôi - Trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, nay đổi tên thành Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội - để yêu cầu kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tôi thắc mắc tự hỏi: “Trường mình đâu phải là doanh nghiệp? Không phải là doanh nghiệp thì lý gì phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp?”. Tôi bèn tìm hiểu các văn bản pháp luật về thuế đối với các trường đại học ngoài công lập.
Té ra điều mà tôi thắc mắc lại chính là nội dung của Nghị định 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006, do Bộ trưởng Bộ Tài chính đề nghị, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Có thắc mắc thì phải hỏi. Hỏi ai? Trước tiên, hãy hỏi Bộ trưởng Bộ Tài chính là người đã soạn thảo và đề nghị ban hành văn bản này.
Câu hỏi thứ nhất: Không phải là doanh nghiệp thì lý gì phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp?
Điều 1 của Nghị định 53/2006 quy định về “đối tượng điều chỉnh” như sau:
1. Nghị định này áp dụng đối với cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia đình, chăm sóc trẻ em.
2. Tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực nêu tại khoản 1 điều này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
Như vậy, Điều 1 phân biệt 2 loại đối tượng:
a. Loại cơ sở được tổ chức và hoạt động như một doanh nghiệp ghi tại Khoản 2 thì theo Luật Doanh nghiệp, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
b. Loại cơ sở thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này là loại được ghi tại Khoản 1. (Trong bài này, tôi chỉ nói đến loại này và cũng chỉ nói đến các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo).
Rõ ràng, loại cơ sở ghi tại Khoản 1 đã bị loại khỏi khái niệm doanh nghiệp. Không phải là doanh nghiệp, nhưng Điều 8 của Nghị định này thì lại quy định phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều khó hiểu chính là ở đây. Như vậy, theo Bộ Tài chính thì trường đại học ngoài công lập thuộc loại hình tổ chức gì?
Trên thế giới, người ta phân biệt các trường ngoài công lập (hay trường tư) thành 2 loại:
- Một loại được xem là doanh nghiệp nếu nó hoạt động theo cơ chế lợi nhuận như doanh nghiệp.
- Một loại được xem là tổ chức phi lợi nhuận (non-profit) nếu nó không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận để chia nhau.
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ “về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao” cũng khẳng định sự phân biệt các cơ sở ngoài công lập ở nước ta thành 2 loại: loại cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận và loại cơ sở hoạt động theo cơ chế lợi nhuận.
Mục II, điểm 4 của Nghị quyết ghi: “Mỗi cơ sở ngoài công lập đều có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc theo cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của các nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trợ giúp người nghèo, lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho các cá nhân và phải chịu thuế. Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở phi lợi nhuận”.
Nghị quyết 05/2005 của Chính phủ xác định rất rõ thế nào là cơ chế phi lợi nhuận và thế nào là cơ chế lợi nhuận. Theo Nghị quyết của Chính phủ thì chỉ những cơ sở hoạt động theo cơ chế lợi nhuận mới phải chịu thuế. Nhưng Nghị định 53/2006 do Bộ Tài chính soạn thảo và đề nghị ban hành thì lại quy định tất cả các cơ sở ngoài công lập mà không phải là doanh nghiệp đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%.
Theo đúng nguyên tắc hành chính thì Nghị định do Bộ sọan thảo không được làm trái Nghị quyết của Chính phủ. Nếu đã làm trái thì phải sửa. Bộ Tài chính nghĩ sao?
Dường như Bộ Tài chính cho rằng ngoài 2 loại hình “lợi nhuận” và “phi lợi nhuận” nói trên, còn có một loại hình thứ ba nữa – một loại hình “nửa dơi nửa chuột”: không phải là doanh nghiệp nhưng vẫn có một số đặc trưng bản chất nào đó của doanh nghiệp, vì thế vẫn phải đối xử như doanh nghiệp. Nếu quả là nhận định như vậy thì hãy điều tra, phân loại cho rõ, không nên hàm hồ nhét tất cả vào một bị.
Trường tôi - Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội - cũng như nhiều trường đại học dân lập/tư thục khác mà tôi biết đã và đang hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận đúng như nội dung đã được xác định trong Nghị quyết 05-2005 của Chính phủ (xem đoạn trích dẫn nêu trên).
Đối với các trường này mà áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp thì có trái với Nghị quyết 05-2005 của Chính phủ không? Điều 8 của Nghị định 53- 2006 có trái với Điều 1 của chính Nghị định ấy không?
Đánh thuế vào các trường đại học ngoài công lập còn đặt ra một vấn đề có tính nguyên tắc: chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với các trường đại học ngoài công lập. Bộ Tài chính thừa biết rằng các trường đại học công lập hiện vẫn được ngân sách Nhà nước bao cấp đến 70 - 80% kinh phí đào tạo, còn trường đại học ngoài công lập thì 10 năm nay vẫn phải “tự xoay xở” hoàn toàn, trong khi cả 2 loại trường đều làm chung một nhiệm vụ là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước.
Cái bất bình đẳng do lịch sử để lại còn chưa xoá được thì Bộ Tài chính lại làm trầm trọng thêm bằng cách đánh thuế vào các trường đại học ngoài công lập. Như vậy là “tạo cơ hội học tập bình đẳng cho mọi người” và quán triệt đường lối của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục - đào tạo sao?
Đánh thuế vào trường đại học ngoài công lập thực chất là đánh thuế vào ai? Thực chất là đánh thuế vào sinh viên! Vì nguồn thu của trường đại học ngoài công lập duy nhất chỉ là học phí. Để nộp thuế thì trường phải thu học phí cao hơn mức kinh phí đào tạo cần thiết. Vậy là lại dẫn đến một bất công mới, một bất công gây bất bình trong nhân dân.
Một người dân có con học trường công lập thi được ngân sách Nhà nước bao cấp gần như hoàn toàn, còn một người khác có con học trường ngoài công lập thì không những phải thanh toán toàn bộ kinh phí đào tạo cho nhà trường, lại còn phải đóng thuế cho Nhà nước nữa! Thử hỏi: với chính sách như thế thì Bộ Tài chính muốn dẫn đường lối xã hội hoá giáo dục - đào tạo của Đảng và Nhà nước ta đi đến đâu? Muốn đẩy tình trạng bất bình đẳng trong xã hội ta đi đến đâu?
Câu hỏi thứ hai: Dựa vào căn cứ nào để quy định rằng quỹ không chia của trường dân lập không thể chuyển thành sở hữu của trường tư thục, khi mà trường dân lập chuyển đổi thành trường tư thục?
Khi nói về việc chuyển đổi trường dân lập thành trường tư thực, Khoản 4 của Điều 6 Nghị định 53-2006 ghi:
4. Trường hợp cơ sở dân lập chuyển đổi thành cơ sở tư thục (tư nhân) trong đó số tài sản được tích luỹ từ kết quả hoạt động của cơ sở dân lập là thuộc sở hữu tập thể, được xác định và chuyển giao cho cơ sở tư thục quản lý và sử dụng theo nguyên tắc bảo tồn, phát triển, không được chia cho cá nhân và được Nhà nước bảo hộ theo quy định của pháp luật.
Ý tứ của đoạn văn bản nêu trên có thể diễn đạt cho dễ hiểu như sau:
Trường dân lập và trường tư thục mà nó chuyển đổi thành thuộc 2 chế độ sở hữu khác nhau, cái trước thuộc sở hữu tập thể, cái sau thuộc sở hữu tư nhân. Vì vậy, quỹ không chia của trường dân lập khi chuyển giao cho trường tư thục thì trường tư thục chỉ có quyền quản lý và sử dụng, chứ không có quyền sở hữu.
Quy định trên đây đặt ra một loạt câu hỏi:
Có thật là tất cả các cơ sở dân lập đều thuộc sở hữu tập thể không? Nếu thuộc sở hữu tập thể thì tập thể ấy gồm những thành phần nào, những người nào? Trường đại học dân lập và trường đại học tư thục mà nó chuyển đổi thành có thật là thuộc 2 chế độ sở hữu khác nhau và 2 chủ sở hữu khác nhau không?
Cái quỹ không chia của trường dân lập (tức “số tài sản được tích luỹ từ kết quả hoạt động của trường dân lập”) khi chuyển giao cho trường tư thục có thật là tài sản thuộc sở hữu tập thể nay chuyển giao cho chủ sở hữu tư nhân không? Và vì thế mà trường tư thục không thể có quyền sở hữu chỉ có quyền quản lý và sử dụng trên nguyên tắc bảo tồn, phát triển?
Cái quỹ không chia ấy được xem là tài sản vô chủ, vì chủ cũ của nó là cơ sở dân lập thì đã chấm dứt tồn tại rồi, còn cơ sở tư thục được quản lý và sử dụng nó thì lại không có quyền sở hữu đối với nó. Vì nó là tài sản vô chủ cho nên theo Bộ Tài chính thì Nhà nước phải đứng ra bảo hộ nó theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo hộ như thế nào, bằng cách nào và bảo hộ đến bao giờ? Nếu trường tư thục “sập tiệm” thì có phải đền số tài sản ấy không, và đền cho ai?
Cả một mớ “bòng bong”, xin dành cho người soạn thảo văn bản trả lời. Ở đây, tôi chỉ hạn chế trong việc xem xét trường hợp của trường đại học dân lập khi chuyển đổi thành trường đại học tư thục. Có thật đó là 2 chế độ sở hữu khác nhau và 2 chủ sở hữu khác nhau không? Có gì vướng mắc khi trường đại học dân lập chuyển giao quỹ không chia của nó cho trường đại học tư thục mà nó chuyển thành hay không?
Câu chuyện phải được thuật lại từ đầu mới rõ được ngọn nguồn.
Cái tên trường đại học “dân lập” xuất hiện cách đây một thập kỷ. Vào thời đó, một số người lãnh đạo còn chưa kịp đổi mới tư duy, họ tỏ ra “dị ứng” với khái niệm tư nhân trong giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Trong hoàn cảnh ấy, các trường đại học cao đẳng do các giáo sư về hưu lập ra buộc phải khoác lấy cái áo “dân lập”.
Nhưng dân lập là dân nào lập ra? Chẳng phải là nhân dân nói chung lập ra. Cũng chẳng phải là một tổ chức xã hội nào cả. Chỉ là một số cá nhân, mà chính xác hơn là một số giáo sư, sau 30 - 40 năm làm nghĩa vụ với Nhà nước đã được Nhà nước cho nghỉ hưu. Gọi họ là dân cũng đúng, là tư nhân cũng đúng. Gọi cái trường do họ lập ra là dân lập cũng đúng, là tư thục cũng đúng. Trước sau gì thì vẫn là những người chủ ấy thôi.
Trước đây, khi những người lãnh đạo còn “dị ứng” với khái niệm tư nhân thì họ khoác lấy cái áo “dân lập”, cho có vẻ mờ mờ ảo ảo. Bây giờ, khi khái niệm tư nhân, tư thục đã được chính thức thừa nhận thì họ trút bỏ cái áo khoác dân lập ra để hiện nguyên hình là tư thục. Thực chất của việc chuyển đổi trường dân lập thành trường tư thục là thế.
Một số quan chức không muốn dừng lại ở chỗ thừa nhận dân lập chỉ như một cái áo khoác. Họ muốn dựng lên một “mô hình dân lập” bằng cách định nghĩa rằng: trường dân lập là một cơ sở giáo dục do một tổ chức xã hội lập ra và huy động các nhà giáo, nhà khoa học, nhà đầu tư đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất ban đầu... Tài sản của trường thuộc quyền sở hữu tập thể của những người góp vốn đầu tư, các giảng viên, cán bộ và nhân viên nhà trường.
Định nghĩa này chỉ đưa ra một quan niệm mơ hồ về sở hữu. Trong cái gọi là quyền sở hữu tập thể kia thì ai sở hữu bao nhiêu? Điều kiện để trở thành một thành viên trong cái tập thể sở hữu ấy là gì? Một giáo sư thỉnh giảng, một nhân viên bảo vệ, với công sức mà mỗi người đóng góp, có đủ điều kiện để được công nhận là một thành viên trong cái tập thể sở hữu ấy không?
Vấn đề mấu chốt cần làm rõ là: chủ sở hữu đích thực của trường dân lập là ai?
Trước tiên, phải kể đến nòng cốt của trường dân lập là các nhà tri thức đã bỏ công sức và vốn ban đầu để dựng lên trường. Ngoài ra là những người đã góp cổ phần vào trường, tự nguyện mất còn (về tiền của) với sự nghiệp của trường. Phần đông trong số người này nếu gọi là “nhà đầu tư” thì chưa hẳn đã đúng. Chỉ một tài chục triệu đồng, thậm chí một vài trăm triệu đồng “góp gió thành bão” để tạo lập chỗ làm việc cho chính mình thì lời lãi gì mà gọi là nhà đầu tư.
Đối với số đông cán bộ nhân viên làm việc cho trường chỉ với tư cách là người làm công ăn lương thì không thể xem là chủ sở hữu của trường. Còn các tổ chức xã hội đã đứng tên thành lập trường, nếu không cấp vốn hoạt động cho trường thì cũng không thể xem là chủ sở hữu của trường. Nhiều nhất thì các tổ chức này cũng chỉ đóng vai trò bảo trợ.
Với thực trạng nêu trên, có thể đi đến kết luận như sau:
Khi trường dân lập chuyển đổi thành trường tư thục thì điều đó chỉ có ý nghĩa là trút bỏ cái áo khoác dân lập để hiện nguyên hình là trường tư thục. Chủ thể và chủ sở hữu tài sản (tài sản vật chất và tài sản vô hình) của trường dân lập và của trường tư thục mà nó chuyển đổi thành chỉ là một. Cho rằng có 2 chủ sở hữu khác nhau ở đây chỉ là chuyện tưởng tượng.
Vì vậy, “chuyển giao” quỹ không chia của trường dân lập sang trường tư thục không có nghĩa là chuyển giao từ người chủ sở hữu này sang người chủ sở hữu khác. Vẫn là những người chủ sở hữu ấy, họ mang cái quỹ không chia của họ từ trường dân lập sang trường tư thục. Họ vẫn có quyền chia nhau cái quỹ không chia ấy, nếu họ muốn, bởi vì chính họ đã từng dùng tài sản của họ để lập ra cái quỹ không chia ấy. Không có cơ sở pháp lý nào để quy định rằng trường tư thục chỉ có quyền quản lý và sử dụng cái quỹ ấy, mà không có quyền sở hữu nó. Cũng không có cơ sở pháp lý nào để Nhà nước đứng ra bảo hộ cái quỹ ấy, vì nó không phải là một tài sản vô chủ. Nó có chủ, và chủ của nó luôn luôn có quyền chi phối nó.
Với 2 câu hỏi nêu trên, tôi nghĩ rằng không phải chỉ riêng mình tôi thắc mắc, mà nhiều nhà trí thức đang hoạt động trong các cơ sở giáo dục - đào tạo ngoài công lập cũng thắc mắc. Rất mong các nhà quản lý tài chính làm sáng tỏ vấn đề trước công luận.
TBKTVN