Lãi suất ngược dòng
Lãi suất tỷ giá và đằng sau đó là chính sách điều hành tiền tệ của Nhà nước đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm do vai trò của nó trong việc tính toán giá thành, sức cạnh tranh của sản phẩm. Ông Nguyễn Phước Thanh, Phó tổng giám đốc Vietcombank nhận định về xu hướng biến động lãi suất hiện nay.
Lãi suất tỷ giá và đằng sau đó là chính sách điều hành tiền tệ của Nhà nước đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm do vai trò của nó trong việc tính toán giá thành, sức cạnh tranh của sản phẩm. Ông Nguyễn Phước Thanh, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) nhận định về xu hướng biến động lãi suất hiện nay.
Hỏi: Gần đây, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất cho vay. Lãi suất trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cũng đã tăng. Thưa ông, đây có phải là những dấu hiệu cho thấy mặt bằng lãi suất đang được đẩy lên và lãi suất sẽ còn tăng trong những tháng còn lại của năm?
Trả lời: Đúng vậy. Có thể xem những động thái của ngân hàng và cơ quan phát hành trái phiếu chính phủ là chuẩn bị cho một mặt bằng lãi suất mới phù hợp với sự mất giá của đồng tiền. Xác định lại mặt bằng lãi suất là điều phải xảy ra khi chỉ số giá cả năm tháng đầu năm đã tăng 4,8%.
Có ba yếu tố tác động đến việc xác định lại mặt bằng này: thứ nhất là nhu cầu nền kinh tế cần vốn để đạt tốc độ tăng trưởng cao; thứ hai, với mức tăng chỉ số giá cả hiện nay nếu ngân hàng thương mại không điều chỉnh lãi suất huy động phù hợp, người dân sẽ không gửi tiền nữa; thứ ba, lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng, đẩy tương quan lãi suất tiền đồng - ngoại tệ thay đổi theo. Trên thế giới, USD và lãi suất của nó vẫn được dùng để so sánh với các ngoại tệ khác. Ở Việt
Hỏi: Ý ông là lãi suất USD ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất tiền đồng?
Trả lời: Người gửi tiền luôn tính toán và tìm cách chuyển đổi đồng tiền họ nắm giữ sao cho có lợi nhất. Nếu gửi tiết kiệm tiền đồng không có lợi, họ sẽ rút tiền đồng, mua USD bên ngoài, chuyển thành ngoại tệ và gửi tiết kiệm ngoại tệ.
Hỏi: Ở Vietcombank đã có sự chuyển dịch tiền gửi từ tiền đồng sang ngoại tệ chưa, thưa ông?
Trả lời: Chưa có sự chuyển dịch lớn. Thường người ta gửi tiền đồng có kỳ hạn và phải chờ đáo hạn mới tính. Mặt khác, thời gian qua tuy lãi suất USD tăng, nhưng tỷ giá tiền đồng - USD lại không tăng bao nhiêu. Đây là một yếu tố hãm bớt sự chuyển dịch tiết kiệm từ tiền đồng sang ngoại tệ. Nếu vừa qua tỷ giá nhảy những bước tương đối dài như lãi suất, thì sự chuyển dịch có thể đã xảy ra rồi.
Hỏi: Theo ông, liệu sắp tới lãi suất USD sẽ thế nào?
Trả lời: Tôi nghĩ, đến cuối năm lãi suất USD sẽ đạt mức 3,5 - 3,75%, thậm chí có thể 4%. Ở trong nước, lãi suất huy động ngoại tệ của các ngân hàng cũng sẽ tăng tương ứng.
Hỏi: Để khuyến khích đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp làm ăn, kinh tế phát triển, thì không những cần nhiều vốn, mà phải là vốn lãi suất thấp. Điều này có mâu thuẫn với "sức nóng" lãi suất hiện nay?
Trả lời: Muốn kinh tế tăng trưởng rõ ràng cần nhiều nguồn vốn. Kinh tế tăng trưởng 8,5% thì tín dụng phải tăng trưởng ít nhất 25%. Ở đây có nghịch lý: nhu cầu vốn tăng, ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và kế đó là tăng lãi suất cho vay. Nhưng lãi suất tăng sẽ hãm đà tăng trưởng.
Tuy nhiên, vấn đề ngân hàng lo không phải là doanh nghiệp không vay, mà là lãi suất cao, doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, không trả được khoản vay cả vốn lẫn lãi. Nếu không cho vay được, ngân hàng lỗ, lãi suất 5 - 10%/năm là cùng, còn cho vay mà không đòi được, thì mất cả chì lẫn chài.
Bên cạnh đó, lãi suất cao sẽ làm giảm những nhà đầu tư thận trọng và chỉ những nhà đầu tư mạo hiểm mới dám vay tiền. Chính vì thế, dù đang ở trong thế buộc phải tăng lãi suất đầu ra, các ngân hàng tính toán kỹ. Họ ý thức rất rõ việc tăng lãi suất năm nay không thể như mọi năm, nghĩa là có tăng, nhưng không thể tăng ở mức cao. Ngoài ra, các ngân hàng đang soát xét lại khách hàng, giảm tín dụng, thận trọng trong đầu tư.
Hỏi: Nghĩa là ngân hàng sẽ siết chặt tín dụng?
Trả lời: Do chủ trương của Ngân hàng Nhà nước nâng cao chất lượng tín dụng và do nhu cầu hội nhập, các ngân hàng phải tăng cường kiểm soát tín dụng. Việc cung ứng vốn của ngân hàng, vì thế, sẽ giảm. Giảm ở đây không có nghĩa là không cung ứng vốn nữa, mà là lượng vốn đầu tư sẽ giảm so với các năm trước. Năm nay đạt được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trên 20% là khó. Nền kinh tế cần tiền trong khi ngân hàng lại siết chặt tín dụng, đó là sự xử lý ngược dòng, nhưng tôi cho rằng sự ngược dòng đó là cần thiết. Để có đủ vốn, Nhà nước cần phải tính thêm nhiều kênh huy động vốn ngoài kênh ngân hàng.
Hỏi: Ông có nghĩ rằng ngân hàng siết chặt tín dụng còn bởi lãi suất tăng bất lợi cho hoạt động tín dụng?
Trả lời: Nhìn bề ngoài, không ít người cho rằng lãi suất tăng thì ngân hàng thuận lợi. Nhưng trên thực tế lãi suất tăng là bất lợi cho hoạt động tín dụng, vì lãi suất cho vay không thể tăng ngay, trong khi lãi suất huy động phải tăng lập tức; mức tăng lãi suất đầu ra luôn thấp hơn mức tăng lãi suất đầu vào; lãi suất cao làm giảm lượng khách hàng vay và có thể khiến chất lượng tín dụng xấu đi.
Hỏi: Từ nhiều năm nay, lãi suất của chúng ta luôn ở mức cao so với mặt bằng lãi suất quốc tế. Lãi suất của những ngoại tệ như USD, yen Nhật, Euro... chỉ xấp xỉ 5%/năm, trong khi của tiền đồng là 10 - 12%/năm. Vì sao có sự chênh lệch lãi suất lớn như vậy?
Trả lời: Lãi suất bây giờ, theo tôi, là trần mà đầu tư có thể chịu đựng được. Nó thỏa mãn cả ba đối tượng ngân hàng - doanh nghiệp - người gửi tiền. Một mức lãi suất cao hơn nữa sẽ phản tác dụng.
Hiện tại Nhà nước vẫn đang kiểm soát lạm phát, kiểm soát mối tương quan giữa tiền đồng và ngoại tệ (vẫn công bố tỷ giá giao dịch bình quân hằng ngày trên thị trường liên ngân hàng). Kiểm soát tỷ giá để đồng tiền Việt
TBKTSG