Quỹ đầu tư tài chính và doanh nghiệp chưa gặp nhau
Khả năng gọi thêm vốn trung, dài hạn của các quỹ đầu tư tài chính có mặt tại Việt Nam còn rất lớn nhưng họ lại… rất khó tìm được chỗ để đầu tư...
Khả năng gọi thêm vốn trung, dài hạn của các quỹ đầu tư tài chính có mặt tại Việt
Trong khi đó, các doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư phải chạy vạy “lấy ngắn nuôi dài” bằng cách liên tục xin đảo nợ từ nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng.
Có thể kể có ba nguồn cung vốn chủ yếu cho doanh nghiệp gồm ngân hàng, nguồn từ thị trường chứng khoán, từ các quỹ (tổ chức bảo hiểm, các quỹ đầu tư).
Tuy vậy, gần đây thị trường đang có những tín hiệu mới. Cùng với việc thành lập các quỹ với tổng nguồn đầu tư khoảng 250 triệu USD, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu nhận được vốn đầu tư từ các quỹ. Như Mekong Capital đã đầu tư vào các công ty chế biến gỗ Đức Thành, AA, Lạc Việt… VinaCapital cũng đã đầu tư 40 triệu USD vào 30 dự án. Rồi Dragon Capital, IDG Ventures Vietnam cũng đã triển khai hoạt động, sẵn sàng giải ngân cho các dự án có triển vọng.
Ngoài ra, các quỹ còn gián tiếp đầu tư vào các công ty thông qua việc mua cổ phiếu, mà đợt đấu giá cổ phiếu Vinamilk vừa qua là một ví dụ.
Khó thoả mãn điều kiện nhận được nguồn đầu tư
Một chuyên gia từng làm việc cho nhiều tổ chức tài chính nhận xét: “Vấn đề căn bản mà họ quan tâm khi đầu tư là kỹ năng quản trị doanh nghiệp. Kế đến là lợi nhuận tiềm năng. Có một số điều kiện mà doanh nghiệp Việt
Kế đến là phía nước ngoài muốn đầu tư dưới dạng hùn vốn và nắm quyền quản lý (51% vốn) nhưng luật pháp Việt Nam hiện chỉ cho đầu tư 30% nên họ không mặn mà.
Thấy được nhu cầu này, Chính phủ Việt
Ông Don Lam, Tổng giám đốc VinaCapital nói: “Các doanh nghiệp tư nhân cũng rất sợ mất quyền lợi khi có sự góp vốn của các quỹ. Nhưng cần hình dung rằng cái bánh được chia sẽ lớn hơn, phần được chia sẽ nhiều hơn khi có vốn hùn của chúng tôi. Về sổ sách kế toán, nếu không làm minh bạch để trốn thuế, doanh nghiệp sẽ không được đầu tư và có thể mất cơ hội phát triển”.
Giá của đầu tư rủi ro
Tình hình kể trên ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng gọi vốn, giải ngân của các quỹ. Ông Don Lam phân tích: “Mức độ rủi ro của thị trường Việt
Nếu đầu tư qua việc mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, chúng tôi phải nhắm đến những công ty có cổ tức trên 10%, đồng thời phải là loại cổ phiếu có mức tăng giá khoảng 10%”.
Thị trường rủi ro càng cao, đòi hỏi mức lợi nhuận phải càng cao. Các quỹ đều có những nghiên cứu chiến lược lựa chọn những ngành, lĩnh vực doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao. Và hiếm có doanh nghiệp thoả mãn các yêu cầu trên để được đầu tư.
Ông Don Lam nói: “Các nhà đầu tư quốc tế có thể giao cho chúng tôi hàng năm 100 triệu USD. Nhưng chúng tôi chỉ dám lên kế hoạch trong 3 - 5 năm tới mỗi năm huy động thêm 50 triệu USD để đầu tư. Vì huy động nhiều mà hiệu quả thấp, các nhà đầu tư sẽ bỏ đi”.
Khơi thông dòng chảy
Ông Trần Văn Vĩnh, giám đốc chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp.HCM kiến nghị nên nới lỏng quy định về đầu tư đối với các dự án điện, nước, bệnh viện… để khuyến khích các nhà đầu tư. Các dự án lĩnh vực này do ảnh hưởng rộng rãi đến xã hội nên bị chi phối bởi những quy định hết sức chặt chẽ nên chưa thu hút được nhà đầu tư.
Ngoài ra, để thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ các quỹ thông qua thị trường chứng khoán, cần cung cấp thêm nhiều hàng hoá chất lượng cho thị trường. Ông Bùi Nguyên Hoàn, Vụ trưởng - Đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tại Tp.HCM cho biết: “Từ 2004 đến nay, Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Trừ những doanh nghiệp an ninh, quốc phòng thì sẽ cổ phần hóa sạch, không giữ lại doanh nghiệp nào, kể cả các tổng công ty 90, 91, từ ngân hàng đến bưu chính, viễn thông, dầu khí... Cùng với việc cổ phần hoá là tăng vốn qua việc phát hành cổ phiếu”.
Bà Nguyễn Thị Hồng, Giám đốc Sở Tài chính cũng cho biết: “Chính quyền thành phố thúc đẩy, khuyến khích doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, cái chính vẫn là từ doanh nghiệp. Họ phải tính toán hiệu quả khi niêm yết như khi có nhu cầu gọi thêm vốn”.
TBKTVN