Sẽ giảm dần ngân sách hỗ trợ doanh nghiệp
Ông Phạm Phan Dũng, Vụ trưởng Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính, cho biết chính sách tín dụng xuất khẩu sẽ được đổi mới theo hướng giảm dần trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp...
Ông Phạm Phan Dũng, Vụ trưởng Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính, cho biết chính sách tín dụng xuất khẩu sẽ được đổi mới theo hướng giảm dần trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp.
Được biết Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ đề án đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư phát triển, xin ông cho biết tại sao chúng ta phải thay đổi cùng lúc hai chính sách lớn này?
Trong bối cảnh chúng ta đang đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì yêu cầu đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan.
Hiện nay, các hình thức hỗ trợ, lãi suất cho vay, đối tượng nhận hỗ trợ của tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước về cơ bản đều không phù hợp với quy định của WTO về hỗ trợ xuất khẩu, trợ cấp ở mức độ khác nhau nên cần được điều chỉnh, bổ sung.
Việc sửa đổi các chính sách tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư phát triển cũng nhằm giảm dần trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp để tập trung nguồn lực có hạn của Nhà nước dành cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, theo quy định tại Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, danh mục đối tượng được vay vốn đầu tư chỉ có hiệu lực đến
Việc xây dựng danh mục vay vốn đầu tư phát triển của Nhà nước để áp dụng từ năm 2006 có sự phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan, bám sát vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2006-2010, theo hướng tập trung hỗ trợ các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển nông nghiệp nông thôn và một số dự án của các ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời tính đến các quy định về đối tượng nhận trợ cấp từ Nhà nước của WTO.
Chúng tôi nhận thấy rằng việc thực hiện các chính sách này nên tập trung vào một đầu mối là tốt nhất.
Đối tượng cũng như các hình thức vay vốn tín dụng xuất khẩu sẽ được quy định ra sao, thưa ông?
Có hai loại đối tượng có thể được vay vốn tín dụng xuất khẩu. Trước hết, đó là các doanh nghiệp Việt
Danh mục được quy định cho thời kỳ từ 2 đến 5 năm (có loại 2 năm và có loại 5 năm) phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, chiến lược xuất khẩu trong từng thời kỳ. Với đối tượng này thì lãi suất cho vay áp dụng cho từng loại kỳ hạn vay và mức độ rủi ro (hay độ tín nhiệm của người đi vay).
Trong giai đoạn trước mắt, lãi suất cho vay có thể được tính bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn và một tỷ lệ phí bù đắp cho chi phí hoạt động của tổ chức cho vay (dự kiến khoảng 1%/năm).
Để giảm thiểu rủi ro cho tổ chức cho vay, mức vốn cho vay tối đa không vượt quá 85% giá trị của hợp đồng xuất khẩu và thời hạn cho vay sẽ phù hợp với thời hạn thanh toán của hợp đồng xuất khẩu, kể cả trường hợp trả chậm tới 2 năm.
Đối tượng thứ hai là các khách hàng nước ngoài cũng có thể được vay vốn để mua hàng hoá dịch vụ của Việt
Ngoài ra, các nhà xuất khẩu Việt
Chúng tôi đề nghị phí bảo lãnh ở mức 1%/năm tính trên số dư bảo lãnh để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (theo thông lệ chung, phí bảo lãnh tín dụng thường ở mức từ 1 – 2%/năm, tuỳ thuộc vào mức tín nhiệm cụ thể của tổ chức được bảo lãnh).
Tại sao trong chính sách tín dụng đầu tư phát triển chúng ta lại bỏ hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và ngoài ra, chính sách về tín dụng đầu tư phát triển còn những thay đổi gì so với Nghị định số 106/2004 , thưa ông?
Không phải là bỏ, Bộ Tài chính kiến nghị điều chỉnh hình thức “hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” thành “hỗ trợ sau đầu tư”.
Chính sách mới có bổ sung một số nội dung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội. Vấn đề lãi suất cũng được sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế: trước đây, lãi suất cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển theo quy định tại Nghị định 106/2004/NĐ-CP thống nhất chung một mức (tương đương 70% lãi suất cho vay thương mại) cho mọi đối tượng và không tính đến thời hạn vay vốn khác nhau giữa các dự án.
Cách xác định lãi suất này còn mang tính bao cấp từ Nhà nước, hạn chế tính chủ động và tự chịu trách nhiệm từ chủ dự án. Do đó, tại dự thảo Nghị định mới, lãi suất cho vay được đổi mới cho phù hợp theo hướng giảm dần bao cấp.
Lãi suất cho vay được quy định phù hợp với từng nhóm đối tượng, thời hạn vay vốn trên cơ sở lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm, được xác định cho từng nhóm đối tượng và thời hạn vay vốn.
Cụ thể, nhóm dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển nông nghiệp nông thôn được áp dụng lãi suất ưu đãi tương đương 90% lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm; nhóm dự án phát triển công nghiệp và dự án đầu tư ra nước ngoài áp dụng lãi suất tối thiểu bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ (kỳ hạn 5 năm) cộng thêm 1%/năm. Lãi suất cho vay được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng đầu tiên và cố định cho cả kỳ hạn vay.
TBKTVN