Tác động từ đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua cả kênh trực tiếp (kênh đầu tư) và gián tiếp (tác động tràn).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế của Việt
Đây là kết luận cuối cùng mà nhóm nghiên cứu thuộc Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đưa ra trong buổi công bố kết quả nghiên cứu "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam" vừa diễn ra tại Hà Nội.
Mặc dù ghi nhận những đóng góp to lớn của FDI vào tăng trưởng kinh tế, tăng năng lực sản xuất công nghiệp và tăng kim ngạch xuất khẩu, nhưng thực trạng hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho thấy, các doanh nghiệp FDI tập trung vào các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, sử dụng nguyên liệu nhập khẩu là chính.
Nghiên cứu cho rằng chính sách này đang cản trở quá trình tạo ra tác động tràn ở Việt
Tác động tràn ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
Theo bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Trưởng nhóm nghiên cứu: "Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như thay đổi công nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh... Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động; sao chép học hỏi; liên kết sản xuất; và kênh cạnh tranh".
Thế nhưng kết quả điều tra 93 doanh nghiệp do Nhóm nghiên cứu tiến hành được phân tích theo 4 kênh có thể sinh ra tác động tràn cho thấy, ít có biểu hiện về tác động tràn tích cực ở quy mô doanh nghiệp. Nếu như xuất hiện tác động tràn thì khả năng lớn nhất ở nhóm ngành chế biến thực phẩm với cả hai hình thức liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Ngành dệt may chỉ đến từ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, còn nhóm cơ khí điện tử chỉ đến từ liên doanh.
Một trong các lý do chính cản trở việc xuất hiện tác động tràn mà nhóm nghiên cứu đưa ra là sự chênh lệch về trình độ công nghệ và sự thiếu liên kết giữa hai khu vực doanh nghiệp.
"Chênh lệch về công nghệ thể hiện qua mức độ tập trung vốn trên đầu lao động thường gây trở ngại cho chuyển giao công nghệ ở những ngành đòi hỏi vốn lớn như nhóm cơ khí điện tử", bà Tuệ Anh nói.
Những nghiên cứu về khả năng sao chép học hỏi cho thấy, trình độ của lao động thấp sẽ hạn chế khả năng tiếp thu và chuyển giao công nghệ. Ngoài trình độ lao động, chênh lệch lớn về công nghệ và năng suất lao động cũng gây khó khăn cho việc di chuyển lao động có chuyên môn giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.
Trên thực tế, hiện tượng đi khỏi doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước, nhiều hơn là đi khỏi doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp trong nước.
Một điều mà bà Tuệ Anh đặc biệt lưu ý là sự xuất hiện tác động tràn phụ thuộc rất lớn vào khả năng hấp thụ của doanh nghiệp. Khả năng hấp thụ đó khác nhau về quy mô vốn, lao động, vị trí địa lý. Kết quả của nhóm nghiên cứu chỉ ra là tác động tràn xảy ra nhiều hơn đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ xét cả tiêu thức vốn lẫn lao động.
Theo giải thích của nhóm nghiên cứu, điều này có thể là do khả năng thích nghi cao với môi trường kinh doanh thay đổi của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này khá linh hoạt trong tất cả các vấn đề về lao động, thay đổi sản phẩm mẫu mã... và vì vậy sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI trong cùng ngành không làm cho các doanh nghiệp này "rời bỏ thị trường".
Hơn nữa, dệt may là nhóm ngành sử dụng công nghệ nhiều lao động nên cũng làm giảm sức ép cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI do các doanh nghiệp FDI không hoàn toàn phát huy được lợi thế về vốn.
Thu hút vốn nhưng phải chú trọng tác động tràn
Về vị trí địa lý, các doanh nghiệp tư nhân ngoài các đô thị lớn và trung tâm công nghiệp lại có khả năng đón nhận tác động tràn tích cực ở mức cao hơn. Lý giải về điều này, bà Tuệ Anh cho biết: các doanh nghiệp tư nhân ở ngoài các trung tâm đô thị lớn và khu công nghiệp ít phải đối mặt trực tiếp với áp lực cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Nhà nước cùng ngành.
Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân, nhất là trong ngành chế biến thực phẩm ra đời muộn hơn các doanh nghiệp Nhà nước và thậm chí muộn hơn một số doanh nghiệp FDI trong ngành. Tức là các doanh nghiệp này một mặt chấp nhận môi trường hoạt động cạnh tranh, nhưng mặt khác vẫn có thể cung cấp sản phẩm cho những khách hàng riêng ở các vùng nghèo hơn mà doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn chưa quan tâm đến.
Đề xuất các chính sách thu hút FDI cho giai đoạn tới, nhóm nghiên cứu cho rằng cần chú trọng thu hút số lượng vốn đầu tư nhưng đồng thời cần nhấn mạnh hơn nữa tác động tràn. Thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành như hiện nay, chỉ nên quy định lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép đầu tư vào mọi lĩnh vực ngoài các lĩnh vực cấm.
Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, mở cửa hơn nữa cho sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước trong một số ngành mà hiện nay vẫn do doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu nắm giữ. Đồng thời thực hiện cam kết về giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan theo lộ trình hội nhập nhằm tạo áp lực cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp và giảm thiểu mức độ bảo hộ đối với một số ngành đang được ưu đãi.
Mục đích của các biện pháp trên là nhằm giảm mức độ tập trung của FDI vào một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, thu hút nguồn vốn này vào tất cả các ngành, qua đó tạo cơ hội để có được tác động lan toả cho các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế.
TBKTVN