Cuộc chiến cà phê hòa tan
Một số chuyên gia cho rằng, đến nay, thị phần cà phê hoà tan dường như đã phân chia xong: Vinacafe: 50,4%, Nescafé: 33,2% và các nhãn hiệu khác 16,4%...
Một số chuyên gia cho rằng, đến nay, thị phần cà phê hoà tan dường như đã phân chia xong: Vinacafe: 50,4%, Nescafé: 33,2% và các nhãn hiệu khác 16,4%.
Với tổng công suất cả nước lên tới hơn 2.200 tấn/năm, có vẻ như thị trường đã bão hoà nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này và làm gay gắt thêm cuộc cạnh tranh thị phần.
Ông Bùi Xuân Thoa, Giám đốc Công ty Cổ phần Cà phê Biên Hoà (Vinacafé) cho biết: “Cà phê Việt
Thị trường cà phê hiện nay được chia thành 2 khu vực rõ rệt: cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Nếu như cà phê rang xay đã mất uy tín trong xuất khẩu vì pha trộn nhiều phụ gia không có lợi cho sức khỏe và không phù hợp thị hiếu tiêu dùng nước ngoài thì cà phê hoà tan lại đang có thế đứng cả trong và ngoài nước. Lĩnh vực cà phê hoà tan được chia thành 2 nhóm: nhóm cà phê hòa tan nguyên chất (chiếm 14%) và nhóm cà phê hoà tan 3 trong 1 (chiếm 86%).
Gần đây, doanh nghiệp chiếm thị phần lớn trong lĩnh vực này - Vinacafé còn trình làng thêm loại cà phê 4 trong 1 (bổ sung thêm nhân sâm). Vì thế, cạnh tranh ở lĩnh vực cà phê hoà tan chủ yếu diễn ra ở nhóm 2 (cà phê 3 trong 1).
Ngoài 2 “đại gia” Vinacafé và Nescafé chiếm tới 83,6% thị phần, mới đây Vinamilk - doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm sữa đã quyết định trình làng sản phẩm Café Moment.
Trung Nguyên - doanh nghiệp đã làm mưa làm gió trên thị trường cà phê phin với thương hiệu Trung Nguyên nhiều năm qua đã làm nóng thị trường cà phê hoà tan bằng sản phẩm G7 với tổng mức đầu tư cho một dây chuyền sản xuất cà phê hoà tan lên tới 10 triệu USD, công suất 200 tấn/năm.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp khác cũng giới thiệu thêm khoảng 20 nhãn hiệu, làm cho “miếng bánh” của thị phần cà phê hoà tan ngày càng nhiều sắc màu.
Khi thị phần ngày càng thu lại, cũng là thời điểm để thị trường chứng kiến những cuộc cạnh tranh quyết liệt nhất. Trong suốt một năm qua, hàng loạt chiêu cạnh tranh được các hãng đem ra áp dụng.
Đầu tiên phải kể đến Trung Nguyên với sản phẩm G7. Doanh nghiệp này đã gây một cú “sốc” khi mượn đối thủ để quảng bá cho mình. Trung Nguyên tiến hành một cuộc “xuống đường” mang theo 2 loại sản phẩm: cà phê hoà tan G7 và Nescafé để người tiêu dùng nếm và cho nhận xét với lợi thế... nghiêng về G7.
Đối lại, trong nhiều tháng qua, Nescafé đã lần lượt tung ra 3 sản phẩm cà phê 3 trong 1 và liên tục thay đổi thông điệp quảng cáo? Lý do gì đã khiến Nescafé phải thực thi quyết liệt các phương thức tiếp cận thị trường như vậy? Đơn giản vì họ cảm thấy sự tăng trưởng không như mong muốn, trong khi các đối thủ đã giành mất thị phần.
Dường như chưa hài lòng với hơn 50% thị phần, Vinacafé quyết định tung thêm một sản phẩm cà phê hoà tan 4 trong 1 (cà phê + đường + bột sữa + nhân sâm) với hy vọng “một mình một chợ”. Cùng với sản phẩm mới, Vinacafé còn tiến hành chương trình quảng bá: “Không nên trì hoãn cái sự sung sướng đó lại” kéo dài hết tháng 12/2005.
Trước đó, Vinacafé còn có chương trình “Xin cảm ơn” theo thể thức: người tiêu dùng gọi điện thoại đến tổng đài của Vinacafé và... lãnh thưởng!
Kết quả: trong vòng 1 tháng, đã có 100.000 cú điện thoại và nhắn tin đến tổng đài của Vinacafé! Những chiến dịch quảng bá rầm rộ của Vinacafé đã không phí công khi doanh nghiệp này chiếm lĩnh vị trí đứng đầu cả trong tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Ông Thoa khẳng định: “Thị trường cà phê Việt Nam đang gia tăng cạnh tranh quyết liệt, với thị phần đáng kể và kinh nghiệm hơn 30 năm, vấn đề tiêu dùng nội địa thực sự không đáng ngại với Vinacafé. Chúng tôi sẽ tăng tổng cầu nội địa bằng những phân khúc mới và cổ vũ người tiêu dùng. Tuy nhiên, mục tiêu lớn của Vinacafé là hướng tới xuất khẩu vào 2 thị trường lớn là Mỹ và Trung Quốc, với việc hoàn toàn chinh phục các hệ thống bán lẻ tại đó, song song đáp ứng 2 yêu cầu lớn: đơn hàng lớn và chất lượng đạt tiêu chuẩn khắt khe của FDA”.
Ngoài ra, doanh nghiệp này còn tiếp tục đầu tư mới một nhà máy cà phê hoà tan có tổng mức 20 triệu USD, với công suất 3.000 tấn/năm bằng những thiết bị hiện đại ngoại nhập và sẽ bắt đầu vận hành vào 2006.
Như vậy, xét về tổng quan, trong khi sức tiêu thụ của thị trường cà phê hoà tan chỉ có chừng mực, các doanh nghiệp đi sau có nên tiếp tục đầu tư vào khu vực này, trong khi lĩnh vực cà phê rang xay chưa được chú trọng đúng mức?
Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Taylor Nelson Sofrees (TNT) thì xu hướng tiêu dùng cà phê hoà tan đang có biểu hiện giảm so với cà phê rang xay. Thiết nghĩ, những doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp đi sau trong lĩnh vực cà phê hoà tan cần có đủ thông tin về thị trường, để tránh đầu tư lệch hướng.
TBKTVN