Người gửi tiền vẫn bị xử ép
Từ ngày 29.4, trần lãi suất huy động trả sau đối với VND kỳ hạn trên 6 tháng là 12%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống là 11,5%/năm; đối với USD là 6%/năm. Mặc dù trần lãi suất đã tăng 1%/năm, nhưng vẫn bất cập về ba phía.
Phía người gửi tiền, lãi suất gửi tiết kiệm vẫn là thực âm so với mức lạm phát. Mới sau 4 tháng, lạm phát đã ở mức 11,6%; theo dự báo cả năm nếu thấp thì cũng phải 14,9%, nếu cao thì lên đến trên 17%. Không cần phải có trình độ tính toán cao siêu gì, cũng có thể thấy rõ lãi suất tiết kiệm đã bị thực âm kéo dài suốt từ năm 2004 (lạm phát 9,5% so với lãi suất 8%), năm 2005 (lạm phát 8,4% so với lãi suất 8%), năm 2006 mới được thực dương một chút (lạm phát 6,6% so với lãi suất 8%), năm 2007 (lạm phát 12,63% so với lãi suất khoảng 9%).
Tính chung 4 năm, lạm phát lũy kế lên đến 42,5%, trong khi lãi suất lũy kế chỉ vào khoảng 37,3%. Đặc biệt trong 4 tháng đầu năm, lạm phát lên đến 2,78%/tháng, trong khi lãi suất huy động chỉ bằng một phần ba. Người gửi tiền đã bị các ngân hàng thương mại dưới sự chủ xướng của Hiệp hội Ngân hàng xử ép, khi đưa ra "lãi suất đồng thuận" 11%/năm và ngay cả khi đưa trở lại 12%/năm.
Phía ngân hàng thương mại có thể được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất gồm các ngân hàng thương mại lớn, chủ yếu là các ngân hàng thương mại dư dật về vốn khả dụng; nhóm thứ hai gồm các ngân hàng thương mại nhỏ, nhất là các ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản, các ngân hàng mới chuyển từ ngân hàng nông thôn lên ngân hàng đô thị.
Trong nhóm thứ nhất, có một số ngân hàng thương mại không muốn nâng trần lãi suất, bởi như thế sẽ làm tăng chi phí đầu vào; nhưng nếu không tăng thì lại sợ mất khách hàng, do người gửi mới sẽ ít đi, thậm chí người gửi cũ sẽ chuyển sang gửi ở ngân hàng khác có lãi suất huy động cao hơn. Đó là chưa kể nếu lãi suất huy động cao hơn, các ngân hàng thiếu thanh khoản sẽ huy động ở dân cư mà không vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hơn. Nhóm thứ hai do thiếu thanh khoản, nên rất mong nâng trần lãi suất, không phải chỉ từ 11%/năm lên 12%/năm mà còn cao hơn để có thể huy động được từ ngoài thị trường, không phải vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hơn.
Về phía Nhà nước, sự bất cập được thể hiện trên hai mặt. Một mặt, với trần lãi suất còn thấp hơn lạm phát như trên sẽ làm cho lãi suất bị thực âm, làm cho công cuộc chống lạm phát bị ảnh hưởng, bởi hút tiền từ lưu thông về là một trong những giải pháp chủ yếu trong chính sách tiền tệ khi kiềm chế lạm phát. Mặt khác, bỏ trần lãi suất và bảo đảm lãi suất thực dương là nguyên tắc của cơ chế thị trường; việc giảm thiểu dần giải pháp tình thế để thực hiện giải pháp cơ bản là định hướng lâu dài.
tn